1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Ngày nay, nhà nước pháp quyền là nhà nước được thực hành mang tính phổ quát ở hầu như tất cả các quốc gia tiến bộ, dân chủ trên thế giới.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nhà nước pháp quyền. Xét về thực chất, nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó, quan hệ giữa nhà nước và công dân là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Trong nhà nước pháp quyền, quyền và tự do của người dân được ghi nhận và bảo đảm, đó cũng là cơ sở chính trị – pháp lý cho việc bảo đảm dân chủ và là sự thể hiện bản chất dân chủ của nhà nước.
2. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Ở Việt Nam, Nhà nước pháp quyền được ghi nhận trong Hiến pháp, bên cạnh những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam có những đặc trưng cơ bản như sau:
– Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân. Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như vào các hoạt động thuộc phạm vi của Nhà nước – hoạt động lập pháp, hoạt động quản lý – điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật.
– Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ những nguyên tắc và quan điểm lớn của Đảng ta và điều chỉnh những chế định lớn – là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, còng như các quyết sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội. Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.
– Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công bằng, dân chủ, bình đẳng – những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt mình trong sự ràng buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản chất dân chủ và giá trị công bằng, bình đẳng của nó. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặt công việc đó trên một nền tảng khoa học.
– Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với Nhà nước v.v. luôn được Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định. Trong nhà nước pháp quyền, các quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của con người như quyền được sống, quyền tự do… mới có cơ hội trở thành hiện thực vì được nhà nước thừa nhận trong pháp luật và bảo đảm thực hiện; các quyền và lợi ích hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của mọi công dân được nhà nước cam kết thực hiện và bảo vệ bằng pháp luật. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận thành nguyên tắc cơ bản ngay tại Điều 3: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; đồng thời ghi nhận chế định quyền con người, quyền công dân trong chương 2 của Hiến pháp.
– Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước
Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Trong các tổ chức thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền thì dù ở chế độ xã hội nào việc xác lập và sử dụng các hình thức và cơ chế giám sát luôn được đặt ra một cách tất yếu bởi vì Nhà nước pháp quyền về thực chất là để công khai hoá quyền lực và chống lạm dụng quyền lực. Trên thực tế, các hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đa dạng và linh hoạt hơn rất nhiều so với những hình thức kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Về cơ bản, có thể nhóm lại những mô hình chủ yếu sau:
+ Các hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân – sự tham chính của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
+ Các hình thức của cơ chế kiểm tra giám sát trực tiếp của cá nhân công dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước.
+ Giám sát nhân dân chuyên trách – Ban thanh tra nhân dân
– Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan.
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước, đối với xã hội không chỉ là tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà còn là ở chỗ sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và cơ sở pháp lý vững vàng.
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản – Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
3. Khái niệm nền hành chính nhà nước
Hành chính là sự thể hiện, là phương tiện của quyền hành pháp. Vậy nền hành chính là gì, trước hết cần hiểu “nền” là chỉ lĩnh vực được xây dựng trong hoạt động của con người làm cơ sở cho đời sống xã hội. Nền hành chính là lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước được lập ra để thực hiện công việc quản lý hành chính của nhà nước. Mục đích tiến hành quản lý hành chính nhà nước nhằm tạo ra trật tự quản lý trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và các mục tiêu khác của nhà nước (liên quan đến chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước). Như vậy, nền hành chính nhà nước mang bản chất giai cấp và bản chất xã hội.
4. Các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước là hệ thống được cấu thành bởi các yếu tố về thể chế, về tổ chức và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính, về đội ngũ cán bộ, công chức và tài chính công để thực thi quyền hành pháp. Các yếu tố của nền hành chính có mối quan hệ hữu cơ và tác động lẫn nhau trong khuôn khổ thể chế, bao gồm:
– Thể chế hành chính: Là các quy định pháp luật về quản lý hành chính. Thể chế hành chính gồm: Thể chế kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa – tư tưởng; Thủ tục hành chính; Thể chế về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Thể chế về bộ máy hành chính nhà nước, cán bộ, công chức, tài chính công, hiện đại hoá…
– Tổ chức và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính nhà nước.
Bộ máy hành chính nhà nước có vị trí, vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức, nguyên tắc hoạt động ở trung ương và địa phương có sự khác biệt. Bộ máy hành chính nhà nước và các cơ quan nhà nước khác, cũng như bộ máy hành chính nhà nước trong hệ thống chính trị có mối quan hệ chặt chẽ, có tổ chức và hoạt động đặc thù.
– Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính: Là chủ thể của bộ máy hành chính nhà nước, có vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng trong nền hành chính nhà nước, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
– Tài chính công:
Tài chính công vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính trong một quốc gia, vừa là một bộ phận cấu thành của nền hành chính nhà nước, được cấu thành bởi: ngân sách nhà nước, bảo hiểm xã hội, tín dụng nhà nước cũng như các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Trong tài chính công có các quan hệ thu, chi, vay và trả nợ, các quan hệ cung ứng hàng hóa, dịch vụ công cộng của nhà nước.
5. Mối quan hệ của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở những phân tích về đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhà nước, xem xét dưới góc độ pháp lý, đặc biệt là luật Hiến pháp năm 2013, có thể đưa ra một số nội dung về mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền hành chính nhà nước như sau:
– Nhà nước pháp quyền chi phối, tác động mạnh mẽ đến nền hành chính nhà nước. Điều này có nghĩa là, các giá trị lớn của nhà nước pháp quyền phải được tiếp nhận và phản ánh thông qua nền hành chính nhà nước, đó là:
+ Nhân dân làm chủ
Văn kiện Đại hội Đảng xác định rõ những phương châm cơ bản xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định. Như vậy, nền hành chính nhà nước phải phản ánh được tính dân chủ, thể hiện được yếu tố nhân dân là chủ trong hoạt động quản lý hành chính, phải chuyển từ mô hình hành chính “cai trị” sang mô hình hành chính “phục vụ” đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tại khoản 2 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”. Bên cạnh đó, tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã quy định: Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
+ Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền và tự do của con người, của công dân. Đây là một đặc trưng của nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong quan hệ với Nhà nước luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Do vậy, nền hành chính cũng phải bảo đảm được các quyền và tự do của con người trong quan hệ với nhà nước. Nền hành chính thông qua các yếu tố cấu thành như thể chế hành chính, tổ chức và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ và công chức hành chính, tài chính công phải bảo đảm được các quyền và tự do của con người bằng việc quy định trong bộ máy hành chính, thiết chế hành chính trách nhiệm bảo về quyền và tự do của con người, công dân…
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận và đảm bảo các quyền và tự do của con người trong quan hệ với nhà nước trong nền hành chính, cụ thể tại Điều 3: “Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” và khoản 1 Điều 28: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Bên cạnh quy định công dân có quyền, thì nhà nước có trách nhiệm đảm bảo thực hiện các quyền đó, cụ thể ngay tại khoản 2 Điều 28 Hiến pháp 2013 đồng thời quy định: “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”…
+ Đề cao tính tối thượng của pháp luật, bình đẳng giữa nhà nước, cán bộ, công chức và công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Đây là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật có giá trị bắt buộc trong nền hành chính, vì nền hành chính là một bộ phận cấu thành nên bộ máy nhà nước. Pháp luật được tôn trọng, có giá trị, có hiệu lực bắt buộc đối với nhà nước, các cơ quan nhà nước trong đó có cơ quan hành chính. Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 1 Điều 8: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…”. Do vậy, nền hành chính cũng được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thông qua chức năng, nhiệm vụ của mình thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật.
Trong nền hành chính nhà nước, bình đẳng giữa nhà nước, cán bộ, công chức và công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp có thể coi là nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vu pháp lý của công dân với cơ quan hành chính nhà nước. Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 2 Điều 8: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Như vậy, những giá trị cơ bản của Nhà nước pháp quyền XHCH Việt Nam phải được phản ánh trong nền hành chính nhà nước, cũng như trong tất cả các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước Việt Nam.
– Mặt khác, do hành chính nhà nước là bộ phân cấu thành của Nhà nước, cùng với yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước ta, thì nền hành chính nhà nước phải thể hiện các giá trị của nhà nước pháp quyền. Tức là nền hành chính nhà nước thông qua các yếu tố cấu thành như thể chế hành chính; tổ chức và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ, công chức; tài chính công phải thể hiện được các giá trị lớn của nhà nước pháp quyền. Cụ thể như sau:
+ Về thể chế hành chính
Thể chế hành chính là những quy định của pháp luật về quản lý hành chính nhà nước. Trong hoạt động của quản lý hành chính, thể chế hành chính thể hiện được các giá trị của nhà nước pháp quyền như tính dân chủ; tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con người, công dân; thượng tôn pháp luật. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho thể chế hành chính là cần sửa đổi, ban hành các Luật mới và các văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Luật cán bộ, công chức…Điều quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp, phân quyền trong quản lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước.
+ Về tổ chức và hoạt động quản lý hành chính của bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng “một cửa”, mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, thể hiện đầy đủ các giá trị của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
+ Về đội ngũ cán bộ, công chức: Chiếm vị trí trung tâm, có vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức là chủ thể đặc biệt để vận hành bộ máy nhà nước. Các giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền sẽ không được đảm bảo nếu như đội ngũ cán bộ, công chức không đạt yêu cầu, không đủ về số lượng và bảo đảm về chất lượng. Do vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, chuẩn hóa, đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức về cả chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, vì con người – chủ thể bộ máy nhà nước đóng vai trò then chốt cho sự phát triển.
+ Về tài chính công:
Tài chính công là một bộ phận cấu thành của nền hành chính nhà nước. Là loại hình tài chính thuộc sở hữu nhà nước, quyết định việc thu chi tài chính công được thực hiện mang tính công quyền; tạo ra hàng hoá dịch vụ công phi lợi nhuận mà mọi người đều có thể tiếp cận. Như vậy, mục đích của tài chính công là thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại. Đây là yếu tố của nền hành chính, mang bản chất của nhà nước, do đó nó thể hiện đầy đủ các giá trị của nhà nước pháp quyền như tính minh bạch, công khai trong quản lý tài chính công của nhà nước để người dân được biết, được kiểm tra, giám sát thông qua các quyền như: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28 Hiến pháp năm 2013)
Hơn nữa, yếu tố tài chính công trong nền hành chính nhà nước thể hiện giá trị cao nhất của nhà nước pháp quyền chính là thông qua việc quản lý và sử dụng tài chính công phải đảm bảo tính hiệu quả, công bằng, đúng pháp luật, được biểu hiện cụ thể tại khoản Điều 55 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật”.
Như vậy, quan hệ giữa nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với nền hành chính nhà nước là sự tác động qua lại giữa các giá trị lớn của nhà nước pháp quyền với các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước, ở đó các giá trị của nhà nước pháp quyền được tiếp thu và phản ánh qua nền hành chính và ngược lại nền hành chính thông qua các yếu tố cấu thành thể hiện các giá trị của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nghiên cứu mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và nền hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách, triển khai thực thi pháp luật của nhà nước để phát triển đất nước, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)