1.Tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế là gì ?

Tư pháp quốc tế là gì ?

Tư pháp quốc tế là ngành luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tức là trong quan hệ đó có ít nhất một bên tham gia là cơ quan, cá nhân, tổ chức là người nước ngoài, cá nhân người Việt nam định cư tại nước ngoài hoặc các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là cá nhân, tổ chức người Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, chấm dứt, thay đổi quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài; phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó tại nước ngoài.

Công pháp quốc tế là gì?

Trong tác phẩm Luật quốc tế của Oppenheim, tác giả cho rằng: “Công pháp quốc tế phát sinh khi chúng ta đặt các nước cạnh nhau, tư pháp quốc tế phát sinh khi chúng ta đặt các nước cạnh nhau, tư pháp quốc tế phát sinh khi đặt các hệ thồng pháp luật cạnh nhau.”

Hệ thống các quy phạm của công pháp quốc tế tồn tại song song với các quy phạm thuộc hệ thống luật quốc gia và có ảnh hưởng, tác động đối với nhau.

Công pháp quốc tế được phân chia thành các bộ phận gồm nhiều nhóm các quy phạm điều chỉnh các quan hệ hợp tác giữa các chủ thể của luật quốc tế như luật điều ước quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự, luật biển quốc tế, luật hàng không dân dụng quốc tế… Bên cạnh những điểm đặc thù, các ngành luật thuộc hệ thống công pháp quốc tế đều có chung các đặc điểm về chủ thể, về đối tượng điều chỉnh, về trình tự xây dựng và biện pháp cưỡng chế. Trong quản lí khoa học và đào tạo, công pháp quốc tế được gọi là ngành luật quốc tế, phân biệt với tư pháp quốc tế là ngành luật gồm các quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến yếu tố nước ngoài (Xt. Tư pháp quốc tế).

Công pháp quốc tế là hệ thống pháp luật bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau và trong trường hợp cần thiết được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thực hiện

2.Nguyên tắc của công pháp quốc tế

– Tính mệnh lệnh chung: Biểu hiện ở tất cả các loại chủ thể đều tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế

– Tính bao trùm: Nguyên tắc cơ bản là chuẩn mực để xác định tình hợp pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế.

– Tính hệ thống: Các nguyên tắc cơ bản có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất.

– Tính thưa nhận rộng rãi: Đặc trưng này thể hiện ở chỗ là các nguyên tắc cơ bản được áp dụng trong phạm vi toàn cầu, đồng thời chúng cũng được ghi nhận trong hầu hết những văn bản pháp lý quốc tế quan trọng.

Cụ thể sẽ được thể hiện qua các nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, tôn trọng và bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia

– Chủ quyền quốc gia là quyền tối cao của quốc gia ở trong nước và quyền độc lập của quốc gia đó trong mối quan hệ quốc tế.

– Tất cả các quốc gia đều bình đẳng về mặt pháp lý, bình đẳng tương xứng về quyền và nghĩa vụ. Các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng chủ quyền lẫn nhau, tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập của từng quốc gia.

– Các quốc gia xây dựng quy phạm pháp luật quốc tế trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, không bị quốc gia nào bị chèn ép về chủ quyền.

Thứ hai, tận tâm thiện chí để thực hiện cam kết quốc tế

– Cam kết quốc tế thể hiện ở điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên, tập quán quốc tế, văn bản pháp lý do quốc gia đơn phương đưa ra trong đó ghi nhận quyền và nghĩa vụ của quốc gia đó với chủ thể khác.

– Xuất hiện quy phạm mệnh lệnh mới của luật quốc tế mà nội dung của cam kết quốc tế làm trái với quy phạm này. Có hành vi vi phạm nghiêm trọng của một bên.

Thứ ba, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau

– Không can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào bất kỳ công việc nội bộ hoặc đối ngoại của quốc gia khác;

– Không can thiệp vào hoặc đe dọa van thiệp vũ trang nhằm chống lại quyền năng chủ thể của quốc gia khác;

– Cấm sử dụng các biện pháp kinh tế, chính trị, các biện pháp khác nhằm mục đích buộc các quốc gia khác phải phục tùng;

– Cấm thực hiện hoạt động lật đổ chế độ ở quốc gia khác, cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác.

Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình

– Các phương pháp hòa bình phổ biến như đàm phán, hòa giải;

– Việc giải quyết hòa bình dựa trên cơ sở bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau;

Thứ năm, tôn trọng quyền tự do các dân tộc

– Tất cả các dân tộc trên thế giới đều có quyền tự do, quyền xác định cho mình chế độ mà không có sự can thiệp nào từ bên ngoài;

– Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do của dân tộc và có nghĩa vụ thúc đẩy, giúp đỡ các dân tộc thực hiện quyền tự quyết.

Thứ sáu, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực

– Không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống lại sự toàn vện lãnh thổ, nền độc lập của các quốc gia khác, ngăn cản các dân tộc thực hiện quyền tự quyết;

– Trong trường hợp tự vệ khi bị tấn công, ngăn ngừa đe dọa hòa bình, trấn áp hành vi xâm lược thì việc dùng vũ lực được xem là hợp pháp;

– Cấm dùng chiến tranh xâm lược và tuyên truyền chiến tranh;

Thứ bảy, tuân thủ các cam kết quốc tế

– Tất cả các thỏa thuận về mặt ý chí của các quốc gia được ghi nhận trong điều ước và tập quán quốc tế được gọi là cam kết quốc tế;

– Các chủ thể của Luật quốc tế phải có nghĩa vụ thực hiện cam kết quốc tế phù hợp với Luật quốc tế sao cho tận tâm, có thiện chí và đầy đủ;

– Không vi phạm các cam kết quốc tế với lý do trái với luật pháp của quốc gia mình

3. Nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế

Tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc, gia trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

Tôn trọng sự bình đẳng về mặt pháp lý quốc tế giữa các hệ thống pháp luật của các quốc gia khi xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột hướng dẫn chọn pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài

Tôn trọng sự bình đẳng về mặt pháp lý quốc tế giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau

Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự do lựa chọn cho mình hình thức tổ chức và quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại.

Không phân hiệt đối xử vì lý do dân tộc, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, ngốn ngữ, chính kiến, trình độ văn hoá

4. So sánh tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế

Thứ nhất, giống nhau:

– Đối tượng điều chỉnh: các quan hệ phát sinh trong đời sống quốc tế

– Nguồn: Đều có nguồn là các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế;

– Những nguyên tắc cơ bản: Đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế nói chung

Thứ hai, khác nhau:

Tiêu chí Công pháp quốc tế

Tư pháp quốc tế

Khái niệm Công pháp quốc tế hay được gọi là Luật quốc tế. Theo đó, Công pháp quốc tế được hiểu là hệ thống pháp luật bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm pháp lý quốc tế được các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau và trong trường hợp cần thiết được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do chính các chủ thể luật quốc tế thực hiện.

 

Tư pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố tụng dân sự có yếu tố nước ngoài
Đối tượng Mới quan hệ giữa các chủ thể mang tính chính trị pháp lý. Những quan hệ pháp lý giữa công dân và pháp nhân phát sinh trọng đời sống quốc tế thuộc về đôi tượng điều chính của Luật Tư pháp quốc tế.  Cụ thể:

– Chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài

– Khách thể của quan hệ đó ở nước ngoài (di sản thừa kế ở nước ngoài)

– Sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay dổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài (hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Canada…)

Phương pháp điều chỉnh Không sử dụng phương pháp điều chỉnh gián tiếp Có hai phương thức điều chỉnh:

– Phương pháp xung đột: Các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến một hay nhiều quốc gia khác nghĩa là liên quan đến các hệ thống pháp luật khác nhau. Như vậy, đây là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật xung đột nhằm điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế.

– Phương pháp thực chất: Đây là phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật thực chất. Khác với quy phạm xung đột, quy phạm thực chất trực tiếp điều chỉnh và quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ pháp luật cụ thể. Quy phạm pháp luật thực chất bao gồm: quy phạm thực chất thống nhất (được ghi nhận trong Điều ước quốc tế) và quy phạm thực chất thông thường (được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia)

Chủ thể Chủ thể chủ yếu là các quốc gia. Tuy nhiên, sẽ bao gồm các chủ thể quốc gia,, tổ chức quốc tế liên chính phủ, các dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết. Các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế đều có vị trí bình đẳng với nhau. Bộ phận cấu thành cơ bản của quan hệ Tư pháp quốc tế là thực thể đang hoặc sẽ tham gia trực tiếp vào các mối quan hệ Tư pháp quốc tế một cách độc lập có các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định được bảo vệ theo các quy định của Tư pháp quốc tế và có khả năng độc lập chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi do chủ thể đó gây ra.

Chủ thể của tư pháp quốc tế bao gồm thể nhân, pháp nhân và nhà nước. Thể nhân và pháp nhân là chủ thể cơ bản, nhà nước là chủ thể đặc biệt.

Nguồn Nguồn luật chủ yếu là nguồn quốc tế. Cụ thể bao gồm các nguồn sau đây:

– Điều ước quốc tế;

– Tập quán quốc tế;

Nguồn của Tư pháp quốc tế bao gồm:

– Luật pháp của mỗi quốc gia;

– Điều ước quốc tế;

– Thực tiễn tòa án và trọng tài (án lệ)

– Tập quán

Các biện pháp chế tài Sử dụng các biện pháp chế tài của lĩnh vực pháp luật dân sự. Bộ máy cưỡng chế nhà nước Các biện pháp chế tài như bao vây, cấm vận, trả đũa…các chủ thể tự cưỡng chế.
Tính chất Tài sản, mang tính quyền lực nhà nước Yếu tố chính trị

5. Mối quan hệ giữa tư pháp quốc tế với công pháp quốc tế

Về mặt nguồn cũng như về bản chất giai cấp, tư pháp quốc tế là lĩnh vực pháp luật lưỡng tính, vừa có tính quốc tế, vừa có tính quốc gia. Do gắn bó chặt chẽ với công pháp quốc tế mà tư pháp quốc tế có tính quốc tế, và ngược lại nhờ có tính quốc tế mà tư pháp quốc tế gắn bó rất chặt chẽ vói công pháp quốc tế.

Sự gắn bó chặt chẽ giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế thể hiện ở những điểm chủ yếu sau đây: cả công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế đều có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ xã hội phát sinh trong sinh hoạt quốc tế; đều có nguồn là điều ước quốc tế và tập quán quốc tế; khi điều chỉnh các mốĩ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, tư pháp quốc tế có các nguyên tắc đặc thù của mình, nhưng vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế. Bỏi vì, các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế cũng chính là những nguyên tắc cơ bản của đòi sống quốc tế. Có thể nói, các nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế được hình thành trên cơ sở hoặc được rút ra từ các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế

Những biểu hiện của sự gắn bó nêu trên đã làm cho một số nhà khoa học khẳng định tư pháp quốc tế trở thành một bộ phận hay một ngành của pháp luật quốc tế.

Những người ủng hộ quan điểm tư pháp quốc tế là một bộ phận hay một ngành của phốp luật quốc tế cho rằng, nói về tư pháp quốc tế là nói về quan hệ giữa các quốc gia nhưng liên quan đến những vấn đề dân sự, rằng bất kỳ tranh chấp nào trong lĩnh vực dân sự giữa các công ty, thậm chí tranh chấp về ly hôn giữa các công dân của các quốc gia cuốỉ cùng đều có thể trỗ thành xung đột giữa các quốc gia. Theo họ, “Nội dung cơ bản của tư pháp quốc tế phải được nghiên cứu trong luật điều ước quốc tể’, “Chỉ có nghiên cứu các điều ưốc quốc tế mối hiểu rõ nội dung của ngành tư pháp quốc tế”

Có thể nói rằng: những người ủng hộ quan điểm tư pháp quốc tế là một bộ phận hay một ngành của pháp luật quốc tế cũng không thể phủ nhận một thực tế khách quan là giữa tư pháp quốc tế và công pháp quốc tế vẫn còn có những điểm khác nhau rất cơ bản như sau:

Tuy cùng là những quan hệ phát sinh trong sinh hoạt quốc tế, nhưng đốì tượng đỉều chỉnh của công pháp quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia và giữa các quốc gia với các chủ thể khác của công pháp quốc tế về mặt chính trị hoặc khía cạnh chính trị của các quan hệ kinh tế, thương mại, khoa học – công nghệ và văn hoá, còn đối tượng điều chỉnh của tư phấp quốc tế là các môì quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.

Chủ thể chủ yếu của công pháp quốc tế là các quốc gia. Cá nhân, pháp nhân không là chủ thể của-công pháp quốc tế. Trong khi đó chủ thể chủ yếu của tư pháp quốc tế là các cá nhân, pháp nhân.

Luật LVN Group ( Suu tầm và biên tập)