NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Giới thiệu chung:

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và khả năng bồi thường của những người gây thiệt hại ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào mức năng lực hành vi, khả năng kinh tế của người đó. Rất nhiều trường hợp người gây thiệt hại không có năng lực bồi thường thiệt hại vì họ là người không có, chưa đủ hoặc là người bị hạn chế năng lực hành vi, là người không có tài sản để bồi thường. Để giải quyết vấn đề trên, Bộ luật Dân sự đã quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân tại Điều 586. Để làm rõ hơn vấn đề đang nói đến, bạn có thể tham khảo nội dung phía dưới về: “Đánh giá các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi và người bị mất năng lực hành vi dân sự”.

2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi:

Theo đoạn 2 khoản 2 Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Quy định này hoàn toàn trái ngược với năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình và người này là chủ thể bồi thường thiệt hại. Quy định này phù hợp với tinh thần Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

Độ tuổi từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi cũng phù hợp và thống nhất với một số quy định của ngành luật khác như Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tại khoản 2 Điều 75: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên sống chung với cha mẹ phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống chung của gia đình; đóng góp vào việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập”; Cũng tại khoản 1 Điều 76 quy định: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý”; Khoản 2 Điều 77 quy định: “Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ”. Như vậy, con từ đủ 15 tuổi trở lên đã có thể có tài sản và thu nhập riêng, phần nào ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia, đóng góp vào đời sống của gia đình, vào việc quản lý được tài sản của mình.

Hơn nữa, có một số căn cứ để chứng tỏ rằng người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Đó là: Thứ nhất, xét về mặt cấu tạo sinh lý thì người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi là những người đã có khả năng tự chủ được hành vi của mình, có khả năng điều khiển hành vi của mình, có ý thức, có kiến thức xã hội về pháp luật nhưng còn hạn chế. Vậy nên, ngoài việc họ có quyền, có khả năng tham gia, thực hiện các giao dịch dân sự nhằm phục vụ sinh hoạt hằng ngày, họ có thể tự xác lập, giao kết những giao dịch dân sự với tư cách là một chủ thể của giao dịch dân sự. Thứ hai, theo Bộ luật Lao động quy định những người từ đủ mười lăm tuổi được tham gia giao kết hợp đồng lao động với những công việc phù hợp với nhận thức và sức khỏe của người đó, theo đó, người ở độ tuổi này tham gia lao động trong các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã,… được hưởng các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản phúc lợi khác và là chủ sở hữu của các khoản thu nhập hợp pháp đó. Thứ ba, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì người từ đủ mười lăm tuổi có quyền tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trước Tòa án. Như vậy, khi người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải dùng tài sản của chính mình để bồi thường, trong trường hợp không có hoặc tài sản không đủ để bồi thường thì cha mẹ của người gây thiệt hại có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây ra bằng tài sản của cha, mẹ. Giả sử trong trường hợp, nếu người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi gây thiệt hại mà không có tài sản để bồi thường nhưng cha, mẹ có tài sản thì có được lấy tiền của cha, mẹ để bồi thường không? Vì quy định là khi tài sản của con “không đủ” chứ không quy định là không có tài sản. Trong trường hợp này thì nên giải quyết như thế nào để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại, đáp ứng được nguyên tắc toàn bộ và kịp thời trong chế định bồi thường thiệt hại của cá nhân. Do vậy, khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự nên quy định sửa đổi, bổ sung thêm: “Nếu con không có tài sản hoặc không đủ tài sản, mà cha mẹ có tài sản thì lấy tài sản của cha mẹ để bồi thường”. Quy định như vậy sẽ hợp lý và dự liệu được cụ thể các trường hợp xảy ra hơn.

3. Năng lực bồi thường thiệt hại của người mất năng lực hành vi dân sự:

3.1 Khái quát chung:

Người mất năng lực hành vi dân sự là người bị mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, và đã có kết luận của cơ quan chuyên môn (Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015). Cũng như người chưa thành niên, năng lực bồi thường thiệt hại của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015. Người mất năng lực hành vi dân sự đang do cha, mẹ chăm sóc, quản lý, giáo dục mà gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường bằng tài sản của mình. Trong trường hợp họ được giám hộ theo quy định tại điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì căn cứ theo từng trường hợp để xác định ai là người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự. Tương tự như người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi năng lực chịu trách nhiệm của người mất năng lực hành vi dân sự sẽ được thực hiện theo các trường hợp: Nếu người mất năng lực hành vi dân sự có tài sản thì người giám hộ có quyền lấy tài sản đó để bồi thường; nếu không có tài sản hoặc tài sản không đủ thì người giám hộ phải dùng tài sản của chính mình để bồi thường; Còn nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải bồi thường.

3.2 Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 599 Bộ luật dân sự quy định: “Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.” Quy định này là hợp lý, nó không những có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa trên thực tế đời sống xã hội. Nó góp phần nâng cao trách nhiệm của bệnh viện, tổ chức xã hội, các tổ chức này phải không ngừng tăng cường công tác quản lý người mất năng lực hành vi dân sự, góp phần giúp cho những người mất năng lực hành vi dân sự có một cuộc sống bình thường, ổn định, vui vẻ và thoải mái. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian ở bệnh viện, tổ chức nhưng một thời gian sau mới có phát hiện mà bệnh viện, tổ chức đó không còn tồn tại thì ai phải bồi thường? Theo ý kiến của cá nhân, trong trường hợp này nên xác định là người bị thiệt hại phải chịu rủi ro, chứ không thể xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cha mẹ, người giám hộ được vì khi gây ra thiệt hại là lúc mà người mất năng lực hành vi dân sự đang thuộc sự quản lý của bệnh viện, tổ chức khác, không thuộc sự quản lý của họ, cho nên cha, mẹ, người giám hộ không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp này.

Bên cạnh đó, trong trường hợp mà bệnh viện, tổ chức quản lý người mất năng lực hành vi dân sự chứng minh được mình không có lỗi trong việc quản lý thì họ không phải bồi thường thiệt hại, mà lúc này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định cho cha, mẹ hoặc người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự bồi thường cho người bị thiệt hại (khoản 3 Điều 586 Bộ luật Dân sự năm 2015).

4. Kết luận:

Qua phân tích trên có thể nhận thấy việc Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là tương đối phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay, nó góp phần giải quyết nhanh chóng các vấn đề có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại của cá nhân trong trường hợp người đó chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có hay không còn cha mẹ, hay người giám hộ, khi thực hiện hành vi gây ra thiệt hại đó thì ai phải là người bồi thường thiệt hại đó, giảm thiểu các vụ án về vấn đề tranh chấp bồi thường thiệt hại cho các Tòa án.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group