Ngân sách (budget) là kế hoạch thu và chi được xác định từ trước của các tác nhân kinh tế như hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ. Ngân sách gia đình là kế hoạch thu chi của các hộ gia đình. Số liệu về ngân sách gia đình được thu thập thông qua các cuộc điều tra ngân sách gia đình do cơ quan thống kê nhà nước thực hiện. Ngân sách doanh nghiệp là kế hoạch thu chi của doanh nghiệp được biểu thị bằng hiện vật hoặc tài chính cho một thời kỳ nhất định trong tương lai (tuần, tháng, quý, năm). Nhìn chung, trong kế hoạch thu ngân sách, người ta dự kiến doanh thu bán hàng (được phân loại theo nhóm sản phẩm, khu vực bán hàng và loại khách hàng) dựa trên các kết quả dự báo nhu cầu. Phần chi ngân sách chỉ ra các chi phí dự kiến cho việc bán hàng và quảng cáo, chi phí phân phối (đóng gói, bảo quản, chuyên chở). Kế hoạch ngân sách này được dùng làm cơ sở để lập các kế hoạch khác của doanh nghiệp, ví dụ kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, quảng cáo, phân phối. Kế hoạch đầu tư cũng nằm trong ngân sách của doanh nghiệp, vì nó biểu thị các khoản chỉ tiêu cần thiết để mua sắm tài sản cố định hoặc tăng thêm vốn luân chuyển.

Ngân sách nhà nước, còn gọi là tài chính nhà nước, là bản dự toán tài chính của chính phủ, trong đó ghi rõ các nguồn thu và khoản chi dự kiến trong một năm tài chính hay tài khoá, ví dụ tài khoá 1997. Nguồn thu chủ yếu của chính phủ là thuế, nhưng cũng có thể bao gồm các nguồn thu khác như các khoản lệ phí không phải thuế, bảo hiểm bắt buộc, viện trợ, lợi nhuận và các khoản giao nộp khác của các xí nghiệp quốc doanh. Phần chi của chính phủ có thể chia thành chi thường xuyên, tức chi tiêu để vận hành bộ máy nhà nước, chi trả lãi suất và chi cho đầu tư công cộng (ở các nước đang phát triển gọi là chi cho đầu tư phát triển, bao gồm cả đầu tư cơ sở hạ tầng và nhà máy mới). Trong hệ thống phân cấp ngân sách nhà nước, người ta tách ngân sách trung ương ra khỏi ngân sách địa phương cả về phương diện thu và chi. Tuy nhiên, ngân sách của chính phủ trung ương có thể tác động vào ngân sách địa phương thông qua việc quyết định về nguồn thu để lại cho địa phương và cấp phát ngân sách cho địa phương, Khi nói ngân sách nhà nước, chúng ta hiểu nó bao gồm cà ngân sách trung ương và ngân sách, địa phương.

Tìm hiểu về nguyên lý của kinh tế học, (Ten Principles of Economics) ?

Nguyên lý của kinh tế học đây là mười ý tưởng cơ bán của kinh tế học do Mankiw, giáo sư kinh tế học trường Đại học Harvad nêu ra trong cuốn những nguyên lý của kinh tế học. Đó là:

• Con người phải đối mặt với sự đánh đổi. Nguyên lý này có cơ sở ở tình trạng khan hiếm nguồn lực. Vì con người chỉ có một lượng nguồn lực nhất định để thoả mãn nhu cầu của mình, nên khi muốn có một thứ, anh ta buộc từ bỏ thứ khác mà anh ta có. Ví dụ, muốn có một giờ học kinh tế học, sinh viên phải từ bỏ một giờ vui chơi; muốn mua thêm một cân thịt, gia đình ông A phải từ bỏ hai cân cá; muốn sản xuất thêm 1 khẩu súng, Việt nam phải từ bỏ việc sản xuất 100 kg gạo; muốn đạt được sự công bằng gấp đôi, Việt nam phải từ bỏ một nửa hiệu quả, …

Chi phí của một thứ là cái mà ta phải từ bỏ để có được nó. Nguyên lý này nhấn mạnh rằng chi phí thực sự (hay chi phí kinh tế) của một quyết định kinh tế là chi phí cơ hội. nghĩa là sự mất đi cơ hội có được thứ khác, chứ không chỉ là số tiền chúng ta bỏ ra để mua nó. Nó hàm ý rằng khi tính toán chi phí của một đường lối hành động, chúng ta phải tính hết các chi phí phát sinh từ việc chấp nhận đường lối hành động đó.

Con người duy lý suy nghĩ tại điểm cận biên. Điểm cận biên là điểm lân cận, ở gần điểm con người bắt đầu thay đổi kế hoạch hành động và khái niệm những thay đổi cận biên được dùng để chỉ những điều chỉnh nhỏ và tăng dần trong kế hoạch hành động. Cách suy nghĩ như vậy giúp con người xác định chính xác các chi phí phát sinh và ích lợi thu được từ một quyết định kinh tế, qua đó tính được phúc lợi kinh tế tối ưu của mình (bằng cách cho chi phí cận biên bằng ích lợi cận biên).

Con người phản ứng với các kích thích. Nguyên lý này hàm ý khi môi trường kinh tế thay đổi, nó phát ra các tín hiệu về sự thay đổi. Khi nhận được các tín hiệu này, con người coi đó là các kích thích và đáp lại bằng cách thay đổi hành vi. Ví dụ, giá thịt lợn đang là 20 nghìn đồng. Bây giờ giả sử giá thịt tăng từ 20 lên 25 nghìn. Ông A nhận được tín hiệu này và phản ứng lại bằng cách giảm lượng thịt mà ông ta dự đinh mua từ 1 kg xuống còn 0,5 kg hoặc từ hd hoàn toàn việc mua thịt và chuyển sang mua 2 kg cá.

Thương mại làm cho mọi người đều có lợi. Kinh tế học đã chứng minh được rằng thương mại cho phép mọi người chuyên môn hoá vào việc sản xuất hàng hoá mà họ có lợi thế so sánh, qua đó làm tăng tổng sản lượng của các bên tham gia và vì thế có thể chia nhau phần sản lượng tăng thêm (xem lợi thế so sánh).

Thị trường thường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế. Đây là ý tưởng về bàn tay vô hình do Adam Smith đưa ra. Việc chú ý tới nguyên lý này giúp chúng ta tránh được một cạm bảy trong kinh tế. Thông thường mọi người nghĩ rằng nền kinh tế hoạt động tốt nếu được tổ chức chặt chẽ, chi tiết và loại trừ được sự tham lam, ích kỳ, Song trên thực tế, điều ngược lại mới đúng. Khi mọi người tự do chạy theo lợi ích riêng của mình, họ bị dẫn dắt bởi bàn tay vô hình (đặc biệt là giá thị trường) và phụng sự xã hội nhiều hơn trường hợp họ chủ trương làm điều đó.

Đôi khi chính phủ có thể cải thiện được kết cục thị trường. Nguyên lý này hàm ý rằng mặc dù thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế, nhưng sự can thiệp của chính phủ cũng cần thiết để cải thiện sự công bằng và hiệu quả. Lý do ở đây là thị trường có thể thất bại trong việc phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả và không thể đảm bảo sự phân phối công bằng. Tuy nhiên, không phải lúc nào chính phủ cũng cải thiện được kết cục thị trường, vì bản thân chính phủ cũng có thể thất bại khi can thiệp sao thị trường.

Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất hàng hoá và dịch vụ của nước đó. Nguyên lý này nhấn mạnh mới quan hệ trực tiếp giữa mức sống và năng suất của một nước: sự khác biệt về mức sống giữa các nước có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của họ. Các hiện tượng như sự cạnh tranh của nước ngoài, thâm hụt ngân sách của chính phủ … chỉ thực sự làm giảm mức sống khi chúng làm giảm năng suất. Vì vậy, nếu muốn nâng cao mức sống, chính phủ phải vận dụng các chính sách tác động tới năng lực sản xuất của đất nước.

Giá cả tăng khi chính phủ in nhiều tiền. Nguyên lý này nhấn mạnh ràng nguyên nhân của các cuộc lạm phát trầm trọng và kéo dài là sự gia tăng của khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, vì điều này làm cho giá trị của tiền giảm và mức giá tăng.

Chính phủ phải đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp. Nguyên lý này nhấn mạnh tầm quan trọng của một phát hiện quan trọng trong kinh tế học, đó là đường Phillips. Đường này phản ánh sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Tuy còn nhiều tranh cãi, nhưng hiện nay các nhà kinh tế nhất trí với nhau rằng trong ngắn hạn, chính phủ chắc chắn sẽ làm tăng thất nghiệp (tức làm giảm sản lượng và gây ra suy thoái) khi cắt giảm lạm phát và ngược lại. Nghĩa là, chính phủ buộc phải “đổi” một ít thất nghiệp (chấp nhận mức thất nghiệp cao hơn) để “lấy” một ít lạm phát (đạt được mức lạm phát thấp hơn) hoặc “đối” một ít lạm phát (chấp nhận mức lạm phát cao hơn) để “lấy” một ít thất nghiệp (đạt được mức thất nghiệp thấp hơn).