1. Thế nào là người định giá tài sản?

Việc xác định giá trị tài sản bị xâm hại có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và trong nhiều trường hợp không chỉ có ý nghĩa đối với việc bồi thường mà còn có ý nghĩa đối với việc xác định hành vi xâm phạm tài sản có dấu hiệu của tội phạm hay không. Đồng thời là căn cứ để xác định khung hình phạt cũng như đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt. Kết quả định giá tài sản có ý nghĩa rất lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự và vấn đề đặt ra ai là người có thẩm quyền định giá…? Do chưa được pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh nên trong thực tiễn áp dụng chưa thống nhất và còn nhiều vướng mắc. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục những hạn chế này và quy định: Người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật.

2. Quyền và nghĩa vụ của người định giá tài sản

Theo Điều 69 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Người định giá tài sản có quyền: tìm hiểu tài liệu của vụ án liên quan đến đối tượng phải định giá; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản cung cấp tài liệu cần thiết cho việc định giá; từ chối việc thực hiện định giá trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành định giá, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để định giá, nội dung yêu cầu định giá vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình; ghi ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận của Hội đồng; các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Người định giá tài sản có nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện định giá tài sản; các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Người định giá tài sản kết luận gian dối hoặc từ chối tham gia định giá mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.

Người định giá tài sản phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong những trường hợp: đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo; đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó; đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó. Việc thay đổi người định giá tài sản do cơ quan yêu cầu định giá tài sản quyết định.

3. Các văn bản pháp luật về định giá tài sản

Hoạt động định giá tài sản trong tố tụng hình sự trước đây được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ và Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.

BLTTHS năm 2015 ra đời, đã quy định cụ thể về định giá tài sản (Điều 69; Điều 101; Điều 215 đến Điều 222) bao gồm: Yêu cầu định giá tài sản; thời hạn định giá tài sản; tiến hành định giá, định giá lại tài sản; định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn; định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt; kết luận định giá tài sản; quyền của bị can, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác đối với kết luận định giá tài sản.

Để hướng dẫn thi hành BLTTHS năm 2015 về định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; sau đó Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 7/3/2018 quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong TTHS theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự.

Để hướng dẫn thi hành Nghị định của Chính phủ về định giá tài sản, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018; sau đó ban hành Thông tư 30/2020/TT-BTC ngày 17/4/2020 để hướng dẫn Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018; Nghị định số 97/2019/NĐ-CP ngày 23/12/2019, thay thế Thông tư 43/2018/TT-BTC ngày 07/5/2018. Quy định về phân loại tài sản cần định giá, cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến yêu cầu định giá tài sản; tiếp nhận và triển khai yêu cầu định giá tài sản; thành lập Hội đồng định giá tài sản; quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá tài sản, Tổ giúp việc Hội đồng định giá tài sản; căn cứ định giá tài sản; lập kế hoạch định giá tài sản; khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; yêu cầu khi áp dụng phương pháp định giá tài sản; chi phí định giá, định giá lại tài sản trong tố tụng hình sự.

4. Tiến hành định giá tài sản

Việc định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản tiến hành. Phiên họp định giá tài sản có thể thực hiện tại nơi có tài sản được định giá hoặc nơi khác theo quyết định của Hội đồng định giá tài sản.

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có thể tham dự phiên họp định giá tài sản nhưng phải báo trước cho Hội đồng định giá tài sản biết; khi được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản thì có quyền đưa ra ý kiến.

Việc định giá tài sản không phải là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ sau:

a) Giá thị trường của tài sản;

b) Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định;

c) Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp;

d) Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có);

đ) Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.

5. Các trường hợp định giá lại tài sản

Thứ nhất, về trường hợp định giá lại tài sản

Điều 218, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về định giá lại tài sản như sau:

“1. Trường hợp có nghi ngờ kết luận định giá lần đầu, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự mình hoặc theo đề nghị của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản. Việc định giá lại tài sản do Hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp thực hiện.

2. Trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại về giá của tài sản cần định giá, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá lại lần thứ hai. Việc định giá lại lần thứ hai do Hội đồng định giá tài sản có thẩm quyền thực hiện. Kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án”.

Như vậy, việc định giá lại tài sản được tiến hành khi có căn cứ nghi ngờ kết luận định giá lần đầu.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc theo đề nghị của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác, ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản. Việc định giá lại tài sản không thể do Hội đồng đã định giá tiến hành, mà do Hội đồng định giá cấp trên trực tiếp thực hiện. Định giá lại có thể tiến hành hai lần khi có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại về giá của tài sản cần định giá. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá lại lần thứ hai. Việc định giá lại lần thứ hai do Hội đồng định giá tài sản có thẩm quyền thực hiện. Kết luận định giá lại trong trường hợp nay được sử dụng để giải quyết vụ án.

Thứ hai, trường hợp định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn.

Điều 219, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn như sau:

“Trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn thì việc định giá tài sản được thực hiện theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá”.

Thực tiễn tố tụng cho thấy, có nhiều vụ án, tài sản cần định giá giúp giải quyết vụ án hình sự đã bị thất lạc hoặc không còn. Tuy nhiên, nếu không định giá thì không thể giải quyết hoặc giải quyết không đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, việc định giá tài sản trong trường hợp này được thực hiện theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá và phải đảm bảo nguyên tắc định giá tài sản: phù hợp với giá thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm; trung thực, khách quan, công khai và kịp thời.

Thứ ba, trường hợp định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt

Điều 220, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt như sau:

“Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định việc định giá lại tài sản khi đã có kết luận định giá lại lần hai của Hội đồng định giá tài sản. Việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt phải do Hội đồng mới thực hiện. Người đã tham gia định giá trước đó không được định giá lại. Kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án”.

Điều luật quy định về việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt. Thẩm quyền quyết định việc định giá lại tài sản trong trường hợp này là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh Án Tòa án nhân dân tối cao.

Việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt được tiến hành khi đã có kết luận định giá lại lần hai của Hội đồng định giá tài sản. Việc định giá tài sản phải do Hội đồng mới thực hiện, những người đã tham gia định giá trước đó không được định giá lại. Điều luật cũng quy định, kết luận định giá lại trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)