Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Dân sự của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Dân sự, gọi: 1900.0191

1. Cơ sở pháp lý:

– Công ước Liên hiệp quốc về chuyên chở hàng hóa bằng đường biển năm 1978

2. Người gửi hàng là gì?

Khoản 3 Điều 1 Công ước Hamburg giải thích: Người gửi hàng” là bất kỳ người nào tự ký hay được người khác đứng tên hoặc thay mặt ký một hợp đồng vận tải hàng hóa bằng đường biển với người chuyên chở, hoặc là bất kỳ người nào mà chính người đó giao hoặc được người khác đứng tên hay thay mặt giao hàng cho người chuyên chở liên quan tới hợp đồng vận tải đường biển.

3. Quy tắc chung về trách nhiệm của người gửi hàng

Điều 12 Công ước quy tắc chung về trách nhiệm của người gửi hàng như sau:

Người gửi hàng không chịu trách nhiệm về thiệt hại của người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực sự, cũng như hư hỏng của tàu, trừ khi thiệt hại hoặc hư hỏng đó do lỗi hoặc do sơ suất của người gửi hàng, những người làm công hoặc đại lý của người gửi hàng gây ra. Những người làm công hoặc đại lý của người gửi hàng cũng không chịu trách nhiệm về thiệt hại hoặc hư hỏng đó, trừ phi thiệt hại hoặc hư hỏng đó do lỗi hoặc sơ suất của họ gây ra.

4. Bình giải quy tắc chung về trách nhiệm của người gửi hàng

Điều 12 quy định trách nhiệm của người gửi hàng đối với những tổn thất mà người ký hợp đồng chuyên chở, hoặc người chuyên chở thực sự phải chịu, hay những tổn hại đối với tàu. Tương tự như trách nhiệm của người chuyên chở, trách nhiệm của người gửi hàng cũng dựa trên nguyên tắc lỗi hoặc sơ suất suy đoán do anh ta hoặc người làm công, đại lý của anh ta đã phạm phải.

Có một số điều khoản khác của Quy tắc Hague và Hamburg quy định về trách nhiệm của người gửi hàng. Điều III.5 của Quy tắc Hague quy định rằng, người gửi hàng coi như đảm bảo cho người chuyên chở về sự chính xác về một số thông tin nào đó. Điều 17 Quy tắc Hamburg cũng có quy định tương tự. Ngoài ra Điểu IV.2 (i) của Quy tắc Hague quy định rõ ràng rằng cả người chuyên chở lẫn tàu đều không phải chịu trách nhiệm đối với tổn thất hay tổn hại phát sinh do hành vi hay thiếu sót của người gửi hàng, người chủ hàng, hoặc người đại lý hay đại diện của anh ta. Điều này không được ghi rõ trong Quy tắc Hamburg nó được coi như là một sự hiển nhiên.

5. Những quy tắc đặc biệt liên quan đến hàng nguy hiểm

Điều 13 Công ước quy định quy tắc đặc biệt về trách nhiệm của người gửi hàng liên quan đến hàng nguy hiểm như sau:

1. Người gửi hàng phải ghi ký hiệu hoặc dán nhãn hiệu một cách thích hợp để làm rõ đó là hàng nguy hiểm.

2. Khi người gửi hàng chuyển giao hàng nguy hiểm cho người chuyên chở hoặc một người chuyên chở thực sự, tuỳ từng trường hợp cụ thể người gửi hàng phải thông báo cho người này về tính chất nguy hiểm của hàng hóa và nếu cần về những biện pháp phòng ngừa phải thi hành. Nếu người gửi hàng không làm như vậy và người chuyên chở hoặc người chuyên chở thực sự không bằng cách khác biết được tính chất nguy hiểm của hàng hóa thì:

a) Người gửi hàng chịu trách nhiệm đối với người chuyên chở và bất kỳ người chuyên chở thực sự nào về thiệt hại do việc gửi hàng đó gây nên và

b) Hàng hóa có thể, vào bất kỳ lúc nào được dỡ xuống, phá hủy hoặc làm vô hại tùy theo hoàn cảnh đòi hỏi mà không phải trả tiền bồi thường.

3. Bất kỳ người nào trong quá trình chuyên chở, đã trách nhiệm về hàng hóa thì là đã biết tính chất nguy hiểm của nó thì không được viện dẫn những quy định ở mục 2 Điều này.

4. Trong các trường hợp mà những quy định ỏ tiểu mục 2 (b) của điều này không áp dụng hoặc không viện dẫn được, nếu hàng nguy hiểm trở nên một mối nguy hiểm thật sự đối với sinh mạng hoặc tài sản thì hàng hóa đó có thể được dỡ xuống, phá hủy, hoặc làm vô hại tùy theo hoàn cành đòi hỏi, mà không phải trả tiền bồi thưòng, trừ trường hợp có nghĩa vụ đóng góp vào tổn thất chung hoặc khi người chuyên chở phải chịu trách nhiệm theo những quy định của Điều 5.

Chủng loại và số lượng hàng hóa nguy hiểm đã tăng mạnh kể từ năm 1924 cho nên Quy tắc Hamburg quy định các điều khoản rõ ràng hơn về chúng so với Quy tắc Hague.

5.1. Dán nhãn hiệu hàng hóa nguy hiểm

Điều 13.1 quy định rằng, người gửi hàng phải đánh dấu và ghi nhãn nguy hiểm đối với những hàng hóa thuộc loại nguy hiểm và điều này phải được thực hiện một cách phù hợp với các tập quán. Những quy định về việc đánh dấu và ghi nhãn nguy hiểm đối với hàng hóa nguy hiểm được ấn định trong các Công ước quốc tế về vấn đề này và trong luật các quốc gia.

5.2. Nghĩa vụ thông báo cho người chuyên chở vể hàng hóa nguy hiểm

Điều 13.2 yêu cầu người gửi hàng phải thông báo cho người chuyên chở về các tính chất nguy hiểm của hàng hóa và về những biện pháp phòng ngừa phải thi hành nếu cần. Trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ trên, người chuyên chở có quyền đòi bồi thường từ người gửi hàng đối với bất kỳ tổn thất nào gây ra do việc chuyên chở hàng hóa nguy hiểm, cũng như việc dỡ xuống, phá hủy hoặc làm vô hại hàng hóa mà không phải trả tiền bồi thường.

5.3. Hiểu biết của người chuyên chở về bản chât nguy hiểm của hàng hóa

Điều 13.3 quy định rằng, người chuyên chở có thể không được viện dẫn các quyền Điều 13.2 nếu anh ta đã nhận trách nhiệm về hàng hóa và đã biết tính chất nguy hiểm của nó. Quy định này là cần thiết bởi vì nó làm rõ rằng người chuyên chở có thể không được bảo vệ bởi điều khoản này nếu trong thời gian nhận trách nhiệm về hàng hóa anh ta đã có hiểu biết từ bất kỳ nguồn nào về tính chất nguy hiểm của chúng, thậm chí nếu người gửi hàng không gửi cho anh ta một cách đầy đủ các chi tiết theo Điều 13.1.

Theo Quy tắc Hague Điều IV.6, người chuyên chở sẽ không được hưởng giới hạn, nhưng có thể dỡ xuống, phá hủy hoặc làm vô hại hàng hóa khi nó trở nên nguy hiểm đối với tàu mà không phải chịu trách nhiệm gì trừ khi là tổn thất chung.

5.4. Quyền hành động của người chuyên chở

Người chuyên chở có thể dỡ xuống, phá hủy hoặc làm vô hại hàng hóa nguy hiểm nếu nó trở nên thực sự nguy hiểm đối với tài sản và sinh mạng. Trong trường hợp này, người chuyên chở không cần phải trả tiền bồi thường trừ khi anh ta phải chịu trách nhiệm theo quy định tại Điều 5 do lỗi của mình hoặc có nghĩa vụ đóng góp tổn thất chung.

Quy tắc Hamburg không nói về quyền của người chuyên chở yêu cầu thanh toán cước phí vận chuyển trong những trường hợp nói trên. Hội nghị Hamburg quyết định rằng, quy định đó là không cần thiết và hầu hết các hệ thống pháp luật đều quyết định người gửi hàng phải thanh toán cước vận tải và chi phí khi không thực hiện được hợp đồng chuyên chở là do lỗi của người gửi hàng liên quan đên việc thông báo cho người chuyên chở về tính chất đặc biệt của hàng hóa. Hơn nữa, các điều khoản của hợp đồng chuyên chở liên quan đến cước phí vận tải đã chi phối tình huống này, các điều khoản đó không bị ảnh hưỏng bởi Quy tắc Hamburg. Quy tắc không gây cản trở đến các điều khoản của hợp đồng nếu nó không xung đột với Quy tắc.

6. Bảo đảm của người gửi hàng

Điều 17 Công ước quy định về bảo đảm của người gửi hàng như sau:

1. Người gửi hàng được coi là đã đảm bảo với người chuyên chở về tính chính xác của những chi tiết liên quan đến tính chất chung của hàng hóa, ký hiệu, số hiệu, trọng lượng và số lượng của những hàng hóa đó như người gửi hàng đã cung cấp ghi vào vận đơn. Người gửi hàng phải bồi thường cho người chuyên chở thiệt hại do những điểm không chính xác trong các chi tiết đó gây ra. Người gửi hàng vẫn chịu trách nhiệm cả trong trường hợp vận đơn đã được chuyển nhượng. Quyền của người chuyên chở về việc đòi bồi thường đó không hề hạn chế trách nhiêm của người chuyên chở theo hợp đồng chuyên chở bằng đường biển đối với bất kỳ ai không phải là người gửi hàng.

2. Bất kỳ thư bảo đảm, hoặc thỏa thuận nào theo đó người gửi hàng nhận bồi thường cho người chuyên chở thiệt hại do việc người chuyên chở hoặc một người thay mặt người chuyên chở phát hành vận đơn không có bảo lưu về những chi tiết được người gửi hàng cung cấp để ghi vào vận đơn hoặc tình trạng bên ngoài của hàng hóa đều vô giá trị và không hiệu lực đối với bất kỳ người thứ 3 nào, kể cả đối với người nhận hàng đã được chuyển giao vận đơn.

3. Thư bảo đảm hay thỏa thuận như vậy có hiệu lực đối với người gửi hàng trừ khi người chuyên chở hoặc người thay mặt người chuyên chở có ý định, bằng cách xóa bỏ điều bảo lưu nói ở mục 2 điều này, lừa gạt một người thứ 3, kể cả người nhận hàng đã hành động dựa vào sự mô tả hàng hóa ghi trong vận đơn. Trong trường hợp này, nếu điều bảo lưu bị xóa bỏ có liên quan đến những chi tiết được người gửi hàng cung cấp để ghi vào vận đơn thì người chuyên chở không có quyền đòi người gửi hàng bồi thường theo mục 1 điều này.

4. Trong trường hợp cố ý man trá như nói ở mục 3 điều này, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm mà không được hưởng giới hạn trách nhiệm quy định trong Công ước này, về sụ thiệt hại của người thứ 3, kể cả người nhận hàng, bởi vì người này đã hành động dựa vào sự mô tả hàng hóa ghi trong vận đơn.

6.1. Bảo đảm về sự chính xác của chỉ dẫn

Theo Điều 17.1 người gửi hàng coi như là đã đảm bảo với người chuyên chở về sự chính xác của các thông tin chi tiết về hàng hóa được họ cung cấp để ghi lên vận đơn. Người gửi hàng phải bồi thường cho người chuyên chở những tổn thất là hậu quả của những điểm không chính xác trong các thông tin chi tiết nói trên. Ví dụ như những chi phí phát sinh thêm mà người chuyên chở phải chịu từ việc lưu kho, giao hàng không phù hợp xuất phát từ những thông tin sai trên vận tải đơn. Ngoài ra, tổn thất của người chuyên chở do những thông tin sai lệch về hàng hóa nguy hiểm đã được quy định tại Điều 13 của Quy tắc. ‘

Điều III.5 Quy tắc Hague có quy định về cơ bản là giống với Điều 17.1 Quy tắc Hamburg trong điểm này. Tuy nhiên, Quy tắc Hamburg có thêm quy định là người gửi hàng vẫn phải chịu trách nhiệm mặc dù họ đã chuyển nhượng vận đơn cho người khác.

6.2. Thư bảo đảm

Trong thực tế, các ngân hàng không mấy khi đồng ý thanh toán hay bảo lãnh thanh toán cho một chuyến hàng được thể hiện bằng một vận đơn không hoàn hảo. Vì vậy, để thuận lợi cho các giao dịch thương mại và thanh toán, trong đa số các trường hợp người gửi hàng cần phải có một “vận đơn sạch” (tức là vận đơn không có bất cứ điều bảo lưu gì). Thậm chí ngay cả khi người chuyên chở có đủ cơ sở để nghi ngờ các thông tin do người gửi hàng cung cấp để ghi lên vận đơn hoặc họ không có biện pháp thích hợp để kiểm tra thông tin đó hoặc họ phát hiện ra những sai sót về điều kiện của hàng hóa thì người gửi hàng vẫn cần một vận đơn sạch để thực hiện được giao dịch.

Trong điều kiện đó, để nhận được một vận đơn sạch, người gửi hàng cần phải cung cấp cho người chuyên chở một “thư bảo đảm” cho người chuyên chở trước những thiệt hại mà họ phải gánh chịu do hậu quả của việc phát hành một vận đơn “sạch”. Cách bảo đảm như vậy phục vụ cho mục đích thương mại bằng cách đáp ứng được đòi hỏi về vận đơn sạch và thúc đẩy nhanh quá trình vận chuyển hàng hóa.

Quan điểm chung của Hội nghị Hamburg là đảm bảo như vậy cần phải được đưa ra một cách hợp pháp. Ngoài ra, các điều khoản của Quy tắc cần phải bao gồm những quy định ngăn ngừa việc sử dụng những thư bảo đảm như vậy để lừa đảo người nhận hàng. Điều 17 đã nêu ra các nguyên tắc sau:

– Điều 17.2 bắt buộc thư bảo đảm của người gửi hàng đối với người chuyên chở không có hiệu lực đối với các bên thứ ba. Nguyên tắc này dường như là không cần thiết, bởi vì bên thứ ba rõ ràng là không phải là một trong các bên trong thỏa thuận đảm bảo. Tuy thế, nó vẫn được đưa vào Quy tắc nhằm mục đích làm rõ vấn đề này.

– Điều 17.3 chứa đựng Quy tắc chính yếu và quan trọng: thư bảo đảm có hiệu lực đối vói người gửi hàng trừ khi người chuyên chở, bằng cách xóa bỏ điều bảo lưu trên vận đơn, có ý định lừa gạt người thứ ba đã hành động dựa vào sự mô tả hàng hóa trên vận đơn. Hơn nữa, nếu những điều bảo lưu bị xóa bỏ có liên quan đến những thông tin chi tiết được cung cấp bởi người gửi hàng để ghi vào vận đơn thì người chuyên chở sẽ mất quyền đòi bồi thường từ người gửi hàng đối vối những thiệt hại là hậu quả của những điểm không đúng trong các thông tin chi tiết nói trên.

– Điều 17.4 đưa vào thêm một chế tài khác nữa đối với người chuyên chở hành động với mục đích lừa gạt một người thứ ba đã hành động dựa vào sự mô tả hàng hóa trên vận đơn và người chuyên chở mất quyền được hưởng giới hạn trách nhiệm theo quy định của Quy tắc Hamburg.

So sánh với Quy tắc Hague không có quy định nào về thư bảo đảm.

Một trường hợp phát sinh khác là khi người chuyên chở có thể thực tế không biết về sự lừa gạt của người gửi hàng nhưng họ lại buộc phải biết về sự lừa gạt đó. Tuy nhiên, Quy tắc Hamburg đã không giải quyết triệt để trường hợp này vì tại Hội nghị Hamburg rất nhiều đoàn đại biểu tỏ ý lo ngại rằng việc đưa ra chế tài đối với người chuyên chở trong trường hợp này sẽ gây trở ngại đối với các tập quán và thực tế thương mại thông thường.

Theo luật của các quốc gia, việc giải quyết vấn đề thư bảo đảm có phần còn nghiêm khắc hơn so với Quy tắc Hamburg. Như vậy, luật quốc gia hiện nay rõ ràng là sẽ có thể có xung đột với Quy tắc. Đặc biệt là về quy định ở Điều 17.3 điều đó có thể trở nên cần thiết chấp nhận một cách hiểu đầy đủ về thuật ngữ “ý định lừa gạt”, để chắc chắn rằng sự bảo đảm hoặc cam đoan được đưa ra với mục đích cố ý lừa gạt sẽ bị vô hiệu.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập