1. Sự thay đổi, bổ sung các nguyên tắc trong BLTTHS 2015

Sự thay đổi, bổ sung các nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã cho thấy sự chuyển hướng về chất của tố tụng hình sự nước ta. Điều đó chắc chắn đã bắt nguồn từ những thay đổi quan trọng trong nhận thức về vai trò, tính chất, mục đích và các chức năng của tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phản ánh những tư tưởng chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp và của Hiến pháp năm 2013.

Theo tinh thần đó, trong số 27 điều quy định về các nguyên tắc của tố tụng hình sự, Chương II của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có tới hơn một nửa các nguyên tắc trực tiếp thể hiện những yêu cầu về tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong các hoạt động tố tụng và nhiều nguyên tắc khác cũng gián tiếp thể hiện yêu cầu đó. Chẳng hạn, một số nguyên tắc mà về hình thức chỉ mang tính chất là những yêu cầu về thủ tục nhưng nội hàm quyền con người lại là điểm cốt yếu nhất. Đó là các nguyên tắc: Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Điều 27). Nội dung các nguyên tắc đó phản ánh tính dân chủ, công bằng, bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2. BLTTHS 2015 đã khắc phục được một số bất cập của BLTTHS 2003

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được một số bất cập của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như tính tản mạn, thiếu đồng bộ của những quy định được coi là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, những quy định có tầm khái quát thấp không đủ khả năng là những tư tưởng và định hướng chỉ đạo chung cho cả hệ thống tố tụng hình sự.

Bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định 4 nguyên tắc hoàn toàn mới đối với tố tụng hình sự Việt Nam như nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13); nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25); nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26). Đòi hỏi về sự phù hợp với Hiến pháp cũng là cơ sở cho việc bổ sung một số nội dung mới và rất có ý nghĩa tại một số nguyên tắc đã có trước đây. Chẳng hạn, nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 10) được bổ sung nội dung: “Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người”; Điều 12 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã được bổ sung nội dung về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình…

3. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” (Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Pháp chế là một nguyên tắc Hiến định, theo đó, “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật” (Điều 8 Hiến pháp năm 2013). Nội dung quy định của Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là sự cụ thể hóa yêu cầu đó của Hiến pháp.

Trong tố tụng hình sự, khi mà quan hệ tố tụng chủ yếu là quan hệ quyền lực thì yêu cầu bảo đảm pháp chế được đặt ra trước hết và chủ yếu là đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Vì vậy, ngay sau khi đặt ra yêu cầu chung về việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì liền theo đó, Điều 7 của Bộ luật này đã xác định: “Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.

Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì pháp chế đều có nghĩa là bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Trong tố tụng hình sự, tuân theo những căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục, tố tụng là yêu cầu số một. Thủ tục pháp lý chặt chẽ (“due process of law”) luôn luôn được coi là yếu tố cốt lõi của chế độ pháp quyền bởi đó là lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Yêu cầu chỉ được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố xét xử theo những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định được bảo đảm thực hiện bởi nhiều quy định xuyên suốt Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó có những quy định về hậu quả bất lợi của việc vi phạm yêu cầu này.

Có thể thấy rõ điều đó qua các quy định sau đây:

– Theo Điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định…”;

– “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” (điểm d khoản 1 Điều 245) là căn cứ cho việc Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung;

– Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn: “Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng” (khoản 5 Điều 267);

– Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi: “Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng” (điểm d khoản 1 Điều 280);

– Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi: “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố” (điểm c khoản 1 Điều 358) hoặc để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong trường hợp “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” (điểm b khoản 2 Điều 358);

– Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được xác định là: “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” (khoản 2 Điều 371).

4. “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là gì?

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.

5. Các trường hợp được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

Theo Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

– Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

– Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 và Điều 77 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

– Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

– Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lý lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lý của pháp nhân thương mại);

– Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

– Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho Viện kiểm sát theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 88 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

– Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;

– Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

– Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

– Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;

– Những trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)