Nhà đầu cơ (speculator) là nhà buôn trên các thị trường được đặc trưng bởi sự biến động mạnh của giá cả, chẳng hạn thị trường nông sản, thị trường nguyên liệu, thị trường chứng khoán, thị trường ngoại tệ. Nhiều người mua, bán hàng hoá và chứng khoán không phải vì đó là lĩnh vực kinh doanh của họ, mà họ hy vọng kiếm được lợi nhuận ngắn hạn từ sự biến động giá cả của chúng. Ví dụ trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu cơ có linh cảm lạc quan ràng giá một loại cổ phiếu nào đó sẽ tăng và quyết định mạo hiểm mua cổ phiếu bằng tín dụng ngắn hạn với lãi suất hiên hành (tức mua nhưng chưa thanh toán ngay mà hẹn trả cả tiền mua và lãi suất sau một thời gian ngắn), rồi bán lại với giá cao hơn sau một hoặc hai tuần và sử dụng số tiền thu được để thanh toán cho người đã bán cổ phiếu cho anh ta. Ngược lại, các nhà đầu cơ có thể có lình cảm bi quan rằng giá một loại cổ phiếu nào đó sẽ giảm và quyết định mạo hiểm bán cổ phiếu với giá hiện tại, mặc dù anh ta không có số cổ phiếu đó, và sử dụng số tiền thu được để mua số cổ phiếu mà anh ta đã hứa cung cấp vào thời điểm tương lai với giá thấp hơn.

Hành vi của nhà đầu cơ trên một thị trường có tác dụng ổn định hoặc gây mất ổn định trên thị trường đó, tuỳ thuộc vào chỗ họ có cùng quan điểm về những biến động tương lai của giá cả hay không. Chẳng hạn, nếu một số nhà đầu cơ trên thị trường chứng khoán cảm thấy rằng giá một loại cổ phiếu nào đó sẽ tăng, trong khi một số nhà đầu cơ khác lại nghĩ ràng giá loại cổ phiếu đó sẽ giảm, thì trên thị trường xuất hiện một số người đầu cơ mua và một số người đầu cơ bán. Nhóm người dấu cơ mua sẽ làm tăng cầu, còn nhóm người đầu cơ bán sẽ làm tăng cung. Hai lực lượng này sẽ bù trừ nhau và những cố gắng của họ gây ra ảnh hưởng không đáng kể đối với giá cổ phiếu. Nhưng nếu hầu hết các nhà đầu cơ đều cho rằng giá một loại cổ phiếu tăng, họ sẽ tìm cách mua nó, qua đó làm tăng nhu cầu về nó và đẩy giá cả của nó tăng lên. Ngược lại, nếu hầu hết các nhà đầu cơ đều cho rằng giá một loại cổ phiếu giảm, họ sẽ tìm cách bán nó, qua đó làm tăng cung về nó và đẩy giá cả của nó xuống.

Việc các nhà đầu cơ làm tăng hay giảm sự biến động của giá cổ phiếu theo thời gian còn tuỳ thuộc vào chỗ quan điểm tập thể về giá cả tương lai đi song hành với những thay đổi cơ bản trong giá cả hay vận động ngược chiều với chúng. Chẳng hạn nếu giá một loại cổ phiếu tăng và các nhà đầu tư đều có quan điểm là nó tiếp tục tăng, họ sẽ tìm cách tiếp tục mua nó với hy vọng có thể bán lại với giá cao hơn. Việc mua cổ phiếu này làm cho giá cả tăng với tốc độ ngày càng cao. Ngược lại, nếu giá một loại cổ phiếu tăng và các nhà đầu cơ cho rằng chẳng bao lâu nữa nó bắt đầu giảm, họ sẽ tìm cách bán cổ phiếu với hy vọng sau này có thể mua lại nó với giá thấp hơn. Việc bán cổ phiếu ra này làm cho xu hướng tăng giá chậm lại.

Các nhà đầu cơ hoạt động cả ở thị trường giao ngay và thị trường giao chậm hay kỳ hạn. Họ thường sử dụng các hợp đồng quyền chọn (ỏpxơn) trong hoạt động mua bán của mình. Chẳng hạn các nhà đầu cơ mua quyền chọn cho phép họ mua một số cổ phiếu nhất định của một công ty với giá nhất định trước một thời điểm tương lai nào đó. Họ sẽ mua khi nghĩ giá cổ phiếu tăng nhiều hơn mức giả định trước cộng chi phí phải trả cho ốpxơn vì kiếm được lợi nhuận bằng cách thực hiện quyền chọn mua và bán lại ngay với giá cao hơn.