1. Khái niệm chuẩn bị phạm tội?

Chế định chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi 2017, cụ thể như sau:

Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Những điểm đáng lưu ý về chế định chuẩn bị phạm tội theo quy định mới?
>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự, gọi: 1900.0191
Chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm cố ý (cố ý trực tiếp) như chuẩn bị kế hoạch, công cụ, phương tiện, điều kiện khác để phạm tội; tìm người cùng phạm tội như thành lập nhóm tội phạm, tham gia nhóm tội phạm.
Chuẩn bị phạm tội tuy chưa phải là hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội cụ thể, chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động để gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, nhưng với tính chất là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm cũng như cho việc gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Sự gây thiệt hại cho khách thể và mức độ thiệt hại phụ thuộc đáng kể vào hành vi chuẩn bị. Vì vậy hành vi chuẩn bị phạm tội là nguy hiểm cho xã hội và được coi là một giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm cố ý.

2. Các dạng của chuẩn bị phạm tội

Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau: Chuẩn bị kế hoạch phạm tội; chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội; thăm dò địa điểm phạm tội; thăm dò, tìm hiểu nạn nhân hay người bị hại; loại trừ trước các trở ngại cho việc thực hiện tội phạm như cắt điện, vô hiệu hóa camera…; thành lập nhóm tội phạm như lôi kéo, xúi giục, tập hợp, bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người trong nhóm tội phạm; tham gia nhóm tội phạm như gia nhập nhóm tội phạm, thực hiện những hành vi mà nhóm tội phạm phân công,…; Chú ý: đối với hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm chỉ là hành vi chuẩn bị phạm tội nếu việc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm không thuộc những trường hợp được quy định tại Điều 109; điểm a khoản 2 Điều 113; điểm a khoản 2 Điều 299 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 vì đây là các trường hợp tội phạm hoàn thành của các tội phạm cụ thể đó (Xem bình luận các Điều 109, 113, 299 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017). BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 bổ sung  hành vi thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm là hành vi chuẩn bị phạm tội không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm mà còn đảm bảo tính tương thích của pháp luật hình sự Việt Nam với luật hình sự quốc tế trong đấu tranh chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Hành vi chuẩn bị phạm tội bị dừng lại vì nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội, hay nói một cách khác là vì nguyên nhân khách quan nên người chuẩn bị phạm tội đã không bắt tay vào việc thực hiện tội phạm, việc người phạm tội phải dừng lại không thực hiện tội phạm là do những trở ngại khách quan (bản thân chủ thể mong muốn thực hiện tội phạm) như: Chuẩn bị súng để giết người hay cướp tài sản thì bị người khác hay nạn nhân phát hiện hoặc bị công an bắt giữ khi khám nhà, khám người; chuẩn bị thuốc nổ để chế tạo bom để khủng bố thì bị công an phát hiện;…Đây là đặc điểm để phân biệt chuẩn bị phạm tội với tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 

3. Trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội. Tuy được coi là một trong các giai đoạn của quá trình thực hiện tội phạm, nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội còn hạn chế bởi hành vi chuẩn bị phạm tội chưa phải là hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội định thực hiện, khách thể của tội định thực hiện chưa bị xâm hại, hậu quả nguy hại chưa xảy ra…Do vậy, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 quy định truy cứu trách nhiệm hình sự hành vi chuẩn bị phạm tội đối với một số tội cụ thể do yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cần thiết phải có biện pháp ngăn chặn và xử lý sớm (25/314 tội danh được quy định trong BLHS). Đó là hành vi chuẩn bị phạm một trong các tội quy định tại điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 124, 134, 168, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 BLHS.

3.1 Về chủ thể

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 BLHS thì phải chịu trách nhiệm hình sự.

3.2 Về hành vi

Quy định trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội tại khoản 2 và khoản Điều 14 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 : Thứ nhất, Bộ luật đã thu hẹp đáng kể số hành vi chuẩn bị phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự (hành vi chuẩn bị phạm 25/314 tội danh được quy định trong BLHS không phân biệt loại tội); Thứ hai, Bộ luật quy định hành vi chuẩn bị phạm những tội danh cụ thể phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ tại điều luật về chuẩn bị phạm tội mà còn quy định hành vi chuẩn bị phạm tội và trách nhiệm hình sự của hành vi đó trong một khoản của điều luật quy định tội danh đó; Thứ ba,  Bộ luật cũng quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu TNHS đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội là tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS).
Quy định mới của BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 như phân tích trên đây cho thấy việc quy định trách nhiệm hình sự chỉ đối với hành vi chuẩn bị phạm  một số tội (25 tội) và quy định cụ thể những tội danh, khung chế tài đối với từng hành vi chuẩn bị phạm tội vừa thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước, vừa tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc áp dụng, đảm bảo tính công khai, minh bạch của luật hình sự.
Cần chú ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội đã cấu thành một tội độc lập khác thì ngoài tội chuẩn bị thực hiện được quy định phải chịu trách nhiệm hình sự, người có hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ: lấy trộm súng quân dụng (chiếm đoạt vũ khí quân dụng) đề chuẩn bị phạm tội giết người thì người phạm tội không chỉ chịu trách nhiệm hình sự về giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội mà còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng.
Về lý luận, chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm, nhưng ở giai đoạn này người phạm tội chưa thực hiện hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ A chuẩn bị dao để tìm B giết nhưng bị em của A phát hiện nên A không thực hiện hành vi giết B.

3.3 Các hình thức chuẩn bị phạm tội

Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau:
Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: Bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm… Dạng chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên, cũng có trường hợp tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B bị trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm…
– Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Ví dụ A muốn cướp tài sản tại nhà B, nên A đã nhiều lần đến nhà B thăm dò xem quy luật sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành cướp tài sản.
– Chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội như: Chuẩn bị xe máy để đi cướp tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc nổ để hủy hoại tài sản, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để làm cho người có tài sản uống nhằm chiếm đoạt tài sản của họ.v.v.
– Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi dễ dàng như: Cho các con đi nghỉ mát để ở nhà giết vợ được dễ dàng…
Như vậy, chuẩn bị phạm tội là hành vi tạo ra tiền đề (điều kiện) cần thiết cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi chuẩn bị phạm tội có một ý nghĩa rất quan trọng đến kết quả của việc thực hiện tội phạm, chuẩn bị càng chu đáo công phu bao nhiêu thì kết quả của việc thực hiện tội phạm càng đạt kết quả bấy nhiêu. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại: Loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện.
Về lý luận thì chỉ có tội phạm được thực hiện do cố ý (cố ý trực tiếp) thì mới có giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Do đó, sẽ không có hành vi chuẩn bị phạm tội mà tội phạm đó sẽ được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp hoặc do lỗi vô ý.
Theo quy định của Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 sửa đổi 2017, thì những người chuẩn bị phạm một trong các tội phạm đã được liệt kê trong điều luật là bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, có một số điều luật nếu chỉ căn cứ vào hành vi chuẩn bị phạm tội thì cũng chưa biết tội phạm đó đã cấu thành hay chưa, mà phải căn cứ vào tội phạm đã hoàn thành mới biết được. Ví dụ: Có một nhóm người đã chuẩn bị hung khí để gây thương tích cho nạn nhân nhưng vì chưa gây thương tích đã bị bắt thì làm sao biết được tỷ lệ thương tật bao nhiêu mà xác định họ có phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hay không mà truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ? vì tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là tội phạm cấu thành vật chất, chứ không phải là cấu thành hình thức “cấu thành cắt xén” mà hành vi chuẩn bị phạm tội là hành vi cấu thành tội phạm? Nếu nhà làm luật quy định chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì về lý luận, tội phạm này phải coi là tội phạm có cấu thành hình thức.

3.4 Về áp dụng hình phạt

Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội, BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 cũng có nhiều sửa đổi, bổ sung như:
khoản 2 Điều 57 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 chỉ quy định: “Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể”. Vậy muốn biết hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể thì lại phải tìm từng điều luật xem điều luật đó có quy định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội hay không? Nếu điều luật nào có quy định trường hợp chuẩn bị phạm tội thì mới áp dụng, còn điều luật nào không quy định chuẩn bị phạm tội thì không được áp dụng. 
Ví dụ: Tội hiếp dâm quy định tại Điều 141 BLHS không quy định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội thì dù người chuẩn bị phạm tội hiếp dâm thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 141 BLHS cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình phạt đối với họ. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp hiếp dâm có nhiều người tham gia (hiếp dâm có tổ chức) có sự chuẩn bị hung khí, địa điểm, phân công vai trò của từng người… lại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, thì đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 thì người phạm tội chuẩn bị phạm tội không phân biệt ở khoản nào của điều luật cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự và bị áp dụng khoản hình phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạm tội tù từ 03 tháng đến 02 năm (khoản 6). Nhiều ý kiến cho rằng, quy định như vậy là chưa thoả đáng, vì khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi 2017 cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác có tỷ lệ thương tật đến 30% cũng chỉ có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trong khi đó, mới chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác chưa gây ra hậu quả gì đã bị phạt tù đến 02 năm. Lúc đầu, Điều 134 có cấu thành 7 khoản và khoản 7 của Điều 134 quy định: “Người chuẩn bị phạm tội này (tức tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác không phân biệt khoản nào của điều luật), thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Tuy nhiên, sau khi BLHS tạm đình chỉ việc thi hành, thì Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 mới quy định lại đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác chỉ cơ cấu lại 6 khoản và khoản 6 của Điều 134 quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
Trong quá trình thảo luận về dự án BLHS năm 2015 sửa đổi 2017, cũng như dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 cũng có ý kiến đề nghị nên giữ lại quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, ý kiến này cuối cùng không được chấp nhận.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group