1. Thế nào là người bào chữa?

Theo khoản 1 Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chỉ mở rộng diện người có quyền bào chữa mà còn mở rộng diện người tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo đó, người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Người bào chữa có thể là: Luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, Bào chữa viên nhân dân, Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

2. Thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa

Theo khoản 1 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Về thời điểm tham gia của người bào chữa được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thành một điều độc lập và tham gia với thời điểm sớm hơn là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra. Quy định này tạo điều kiện cho người bị buộc tội nhận được sự trợ giúp nhiều hơn từ phía người bào chữa. Theo đó, người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ. Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

3. Bào chữa viên nhân dân

Để khắc phục những khó khăn vướng mắc trong việc xác định bào chữa viên nhân dân và phát huy hơn nữa việc tham gia tố tụng của họ, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ hơn chế định Bào chữa viên nhân dân. Theo đó, Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức pháp lý, có đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

Hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân không phải chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư. Cho đến nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng chưa có một văn bản nào quy định về hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân nên vị trí, vai trò của họ cũng mờ nhạt. Việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là Luật sư và người đại diện hợp pháp của những người đó.

Thuật ngữ Bào chữa viên nhân dân xuất hiện lần đầu trong BLTTHS 1988 và được tiếp tục được nhắc đến trong BLTTHS 2015. Theo khoản 3, Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong 2 trường hợp sau:

Thứ nhất, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình (điểm c khoản 2 điều 76 BLTTHS 2015).

Thứ hai, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS. Theo quy định tại khoản 4 điều 75 BLTTHS năm 2015, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền và trách nhiệm tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

4. Những người không được tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa

Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, những người sau đây không được bào chữa gồm có:

– Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó;

– Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về những người không được tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cũng đầy đủ và rõ ràng hơn, bao gồm: người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

5. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa

Theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, người bào chữa có quyền: Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn quyền và nghĩa vụ của người bào chữa như: quyền gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; có mặt trong những hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; đề nghị tiến hành một số hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố- tụng hình sự năm 2015, đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố” tụng; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật Hên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án bên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, người bào chữa có nghĩa vụ: sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhận bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; tôn trọng sự thật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài bệu sai sự thật; có mặt theo giấy triệu tập của tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân; không được tiết lộ thông tin về vụ án, người bị buộc tội mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản; không được sử dụng thông tin về vụ án, người bị buộc tội mà mình biết được trong khi thực hiện việc bào chữa vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)