1. Khái niệm quyền bào chữa

Quyền con người luôn được đề cập trong các đạo luật của mỗi quốc gia. Qua lịch sử đấu tranh, tồn tại và phát triển của loài người, quyền đó vẫn luôn luôn được ghi nhận và bảo đảm. Những nguyên tắc về quyền con người, trong đó có quyền bào chữa luôn được hoàn thiện dần theo thời gian và đã được khẳng định trong các văn bản pháp lí như Đạo luật của Anh năm 1689 về các quyền hoặc Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp năm 1791 cũng khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử, nhà nước luôn có những quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Những quyền cơ bản đó được nhà nước đảm bảo thực hiện đồng thời công dân cũng có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền lợi của người khác. Một trong các hình thức thực hiện quyền cơ bản của công dân được nhà nước đảm bảo thực hiện là quyền được bảo vệ mình trước cơ quan pháp luật trong đó có quyền bào chữa.

Xung quanh khái niệm bào chữa có nhiều quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền bào chữa là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách nhiệm của bị can”.

Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền bào chữa được hiểu rộng hơn, nó không chỉ dừng lại ở việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hay làm giảm trách nhiệm của bị can mà nó còn được thể hiện trong cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ của bị can kể cả khi chúng không trực tiếp liên quan tới việc làm giảm trách nhiệm của bị can trong vụ án.

Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền bào chữa trong BLTTHS là tổng hoà các hành vi tố tụng do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án thực hiện trên cơ sở phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phủ nhận một phần hay toàn bộ sự buộc tội của cơ quan THTT, làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự của mình trong vụ án hình sự”.

Quan điểm thứ tư cho rằng: “Không chỉ bị cáo mà cả người bị hại cũng cần đến việc bào chữa. Nhân chứng, giám định viên và cả những người khác cũng vậy, nếu quyền lợi của họ bị xâm hại”.

2. Quyền bào chữa trong BLTTHS của một số nước

Luật tố tụng hình sự của các nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về quyền bào chữa. Theo BLTTHS Nhật Bản thì quyền bào chữa thuộc về bị cáo và người bị tình nghi cụ thể là: “Bị cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn Luật sư của LVN Group bào chữa bất kì lúc nào” (Điều 30 BLTTHS Nhật bản).

Theo Điều 73 BLTTHS của Bungari, quyền bào chữa là quyền của bị can, bị cáo trong đó quyền bào chữa của bị can được coi là bị hạn chế vì họ chỉ có quyền nhờ người bào chữa trong một số trường hợp cụ thể.

Điều 38 BLTTHS của chính quyền Sài Gòn trước đây quy định: “Trong giai đoạn điều tra sơ vấn nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải biết ngay là phạm tội gì và có quyền nhờ Luật sư của LVN Group dự kiến”.

3. Quyền bào chữa ở Việt Nam

Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản của mọi nền tư pháp dân chủ. Ở Nhà nước ta, bảo đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận ngay từ Hiến pháp năm 1946: Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư của LVN Group (Điều thứ 67). Các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 tiếp tục ghi nhận và đề cao nguyên tắc quan trọng này. Hiến pháp năm 2013, tại Chương II (Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân) quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư của LVN Group hoặc người khác bào chữa” (khoản 4 Điều 31); đồng thời, tại Chương VIII (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyên bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (khoản 7 Điều 103).

Như vậy, so với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa không chỉ là bị can, bị cáo, mà còn được bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ. Đồng thời, không chỉ quy định vấn đề này ở Chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, mà còn được bổ sung và đặt trong Chương quyền con người, quyền công dân nhằm khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền con người, quyền công dân quan trọng nhất của người bị buộc tội. Do đó, trước hết, phải được ghi nhận với tư cách là quyền của con người, quyền của công dân.

4. Những điểm mới về quyền bào chữa trong BLTTHS 2015

Từ những vấn đề nêu trên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều điều chỉnh quan trọng nhằm cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013:

Thứ nhất, thay vì chỉ được điều chỉnh bởi 03 điểu luật như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật mới đã bổ sung một chương (Chương V) nhằm quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến bào chữa.

Thứ hai, ngoài ba chủ thể được bảo đảm quyền bào chữa (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được bảo đảm quyền bào chữa (Điều 58).

Thứ ba, mở rộng diện người bào chữa gồm cả trợ giúp viên pháp lý nhằm bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách thay vì chỉ gồm Luật sư của LVN Group, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân như Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 72).

Thứ tư, mở rộng trường hợp cơ quan tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử hình như quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Thứ năm, quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, Luật sư của LVN Group có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83).

Thứ sáu, thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, đồng thời, rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn 24 giờ nhằm tạo điều kiện để người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án (Điều 78).

Thứ bảy, bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75). Đặc biệt, để tháo gỡ những khúc mắc thời gian qua liên quan đến việc bào chữa cho người đang bị tạm giữ, tạm giam, bảo đảm tính minh bạch của hoạt động tố tụng hình sự, Bộ luật được bổ sung quy định: “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có để nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên có đề nghị phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ chối (khoản 2 Điều 77).

Thứ tám, để bảo đảm tranh tụng dân chủ, Bộ luật bổ sung cho người bào chữa quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (Điều 73).

Thứ chín, nhằm khắc phục những thiếu sót của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa về thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để người bào chữa tham gia theo quy định (Điều 79).

Thứ mười, đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của người bào chữa. Trường hợp người bào chữa vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật (Điều 73).

5. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và quyền bào chữa

Hiến pháp năm 2013, tinh thần của nguyên tắc quy đoán vô tội đã được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 31 “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013, Điều 13 BLTTHS năm 2015 lần đầu tiên quy định nguyên tắc suy đoán vô tội: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Nguyên tắc suy đoán vô tội có mối liên hệ mật thiết với việc bảo đảm quyền bào chữa. Sẽ là “sự suy đoán có tội” nếu quyền bào chữa của người bị buộc tội còn bị vi phạm trên thực tế; tương tự như vậy, nếu quyền bào chữa được bảo đảm tức là đã bảo đảm trên thực tế yêu cầu của “nguyên tắc suy đoán vô tội”.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)