Luật sư tư vấn:

Theo quy định của luật tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì tòa án hình sự có thể ban hành các quyết định sau:

1. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là văn bản áp dụng pháp luật do thẩm phán chủ toạ phiên toà ban hành trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi có căn cứ quy định tại Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015nhằm bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ và giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện và đầy đủ.

Theo Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thẩm phán chù toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:

Thứ nhất, khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà không thể bổ sung tại phiên toà được;

Chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là chứng cứ quy định tại Điều 86, Điều 87 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà nếu thiếu chứng cứ này thì không giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

Đó là chứng cứ để chứng minh một trong những trường hợp (Xem: Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung) sau:

a) Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi đã xảy ra có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính và các trường hợp khác theo quy định của luật);

b) Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;

c) Chứng cứ để chứng minh “ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một chủ thể cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;

d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định chủ thể có lỗi hoặc không có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; nếu có lỗi thì là lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả theo quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Bộ luật hình sự năm 2015;

đ) Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không; nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;

e) Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định chủ thể thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì; mục đích, động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay là tình tiết định tội, tình tiết định khung hình phạt;

g)Chứng cứ để chứng minh “tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định bị can, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 51, Điều 84 của BLHS hoặc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52, Điều 85 BLHS;

h) Chứng cứ để chứng minh “đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo” là chứng cứ xác định lí lịch của bị can, bị cáo; nếu bị can, bị cáo là pháp nhân thương mại thì phải chứng minh tên, địa chỉ và những vấn đề khác có liên quan đến địa vị pháp lí và hoạt động của pháp nhân thương mại;

i) Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, mức độ thiệt hại, hậu quả về vật chất, phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra;

k) Chứng cứ để chứng minh “nguyên nhân và điều kiện phạm tội” là chứng cứ xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, điều kiện cụ thể dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội;

l) Chứng cứ để chứng minh “những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt” là chứng cứ chứng minh những vấn đề được quy định tại các điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29, 59, 88 và các điều luật khác của BLHS;

m) Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 85 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: chứng cứ để xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức; chứng cứ để xác định trách nhiệm dân sự của bị can, bị cáo và những vấn đề khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật;

n) Trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thì ngoài việc xác định chứng cứ trong các trường hợp được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, 1 và m nói trên còn phải xác định chứng cứ để chứng minh điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo quy định tại Điều 75 BLHS.

Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), hội đồng xét xử (tại phiên toà) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp trên, nếu xét thấy không thể bổ sung được trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên toà.

Không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ để chứng minh thuộc một trong các trường hợp trên nhưng vẫn truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được chứng cứ đó.

Thứ hai, có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm; có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can;

Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), hội đồng xét xử (tại phiên toà) trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ để cho rằng bị can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhung chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can hoặc bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

– Ngoài hành vi phạm tội mà viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội khác;

– Ngoài bị can hoặc bị cáo đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Toà án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau:

– Trường hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can hoặc bị cáo ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;

– Đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án của cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 170, khoản 2 Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

– Đã yêu cầu viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Điều 284 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ ba, việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm ưọng về thủ tục tố tụng.

Vi phạm nghiêm ưọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ưong quá ưình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm ưọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Xâm hại nghiêm ưọng quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng là làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia tố tụng, có thể gây ra cho họ thiệt hại về vật chất, tinh thần;

Những trường hợp sau đây được coi là có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng:

a) Lệnh, quyết định của cơ quan điều fra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 phải có sự phê chuẩn của viện kiểm sát, nhưng không có phê chuẩn của viện kiểm sát hoặc việc kí lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

b) Không chỉ định, thay đổi hoặc chấm dứt việc chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội theo quy định tại Điều 76 va Điều 77 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

c) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện của bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không đúng quy định tại Điều 170 hoặc Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

e) Không cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng gồm lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo hạng, bản án cho người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm trọng đến quyền bào chữa, quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác;

g) Chưa điều tra, lập lí lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của bị can, bị cáo (tuổi, tiền án, tiền sự), lí lịch hoạt động của pháp nhân thương mại phạm tội (tên, địa chỉ, những vấn đề khác liên quan đến hồ sơ pháp lí của pháp nhân thương mại);

h) Không có người phiên dịch, người dịch thuật cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt; họ là người câm, người điếc, người mù theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

i) Không từ chối tiến hành, tham gia tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong trường hợp quy định tại các điều 49, 51, 52, 53, 54, 68, 69 và 70 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ để chứng minh đối với vụ án sự nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

l) Biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà không chuyển cho viện kiểm sát theo đứng quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

m) Chứng cứ để chứng minh đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt dẫn đến sai lệch hồ sơ vụ án;

n) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

o) Có căn cứ để xác định có việc bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

p) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật xâm hại nghiêm ừọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ;

q) Những trường hợp khác phải ghi rõ lí do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Toà án không trả hồ sơ để điều ha bổ sung theo căn cứ này khi thuộc một trong các trường họp sau:

– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích họp pháp của người tham gia tố tụng;

– Người bị buộc tội, người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi nhưng khi thực hiện hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì họ đã đủ 18 tuổi.

– Trường hợp toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có căn cứ cho rằng bị can hoặc bị cáo phạm tội khác nặng hơn tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố thì thực hiện như sau (Xem: Điều 7 Thông tư liên tịch số 02/2017/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP, ngày 22/12/2017, quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung):

– Trường hợp phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn thì viện kiểm sát trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung để thay đổi tội danh và kết luận điều tra về tội danh khác nặng hơn;

– Trường hợp viện kiểm sát đã yêu cầu mà cơ quan điều tra không thực hiện thì viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can về tội danh khác nặng hơn và yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 156 và Điều 180 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu thấy có một ưong các căn cứ ưả hồ sơ để điều tta bổ sung thì thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà ưao đổi với kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc có thể bổ sung được tại phiên toà mà không phải ưả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu kiểm sát viên và thẩm phán không thống nhất ý kiến thì báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét cho ý kiến về việc giải quyết vụ án. Trường hợp viện kiểm sát phát hiện có căn cứ ưả hồ sơ để điều tra bổ sung thì viện kiểm sát có văn bản đề nghị toà án ưả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định ưả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án ưong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho toà án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó.

Thay đổi nội dung cáo trạng là thay đổi những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự như: thời gian, địa điểm phạm tội; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can; thay đổi điểm, khoản, điều luật mà viện kiểm sát đã áp dụng để truy tố.

Trường hợp viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà toà án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì toà án tiến hành xét xử vụ án.

Tại phiên toà, kiểm sát viên chủ động phối hợp với hội đồng xét xử làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nếu có một trong các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung quy định tại các điều 3, 4, 5 và 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP hoặc phát sinh những vấn đề mới, phức tạp mà không thể thực hiện ngay tại phiên toà thì hội đồng xét xử tự mình hoặc theo đề nghị của kiểm sát viên quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Đối với vụ án do viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và phân công cho viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm, nếu phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì toà án thụ lí xét xử sơ thẩm trao đổi với viện kiểm sát cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bô sung. Trước khi toà án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, viện kiểm sát cấp dưới báo cáo với viện kiểm sát cấp trên xem xét, trao đổi với toà án. Trường hợp toà án vẫn quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì xử lí như sau (Xem: Điều 11 Thông tư liên tịch số 02/2017/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung):

– Nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của toà án có căn cứ thì viện kiểm sát cấp dưới làm văn bản nêu rõ lí do và chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát cấp trên để thực hiện việc điều tra bổ sung theo thẩm quyền;

– Nếu quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của toà án không có căn cứ thì viện kiểm sát cấp dưới có văn bản nêu rõ lí do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho toà án để đưa vụ án ra xét xử đồng thời báo cáo viện kiểm sát cấp trên.

Trường hợp vụ án có bị can đang bị tạm giam mà xét thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì trước khi hết thời hạn tạm giam ít nhất 07 ngày, toà án thông báo cho viện kiểm sát biết để xem xét, quyết định việc tạm giam bị can khi nhận hồ sơ vụ án.

2. Quyết định tạm đình chỉ vụ án

Quyết định tạm đình chỉ vụ án là văn bản áp dụng pháp luật do thẩm phán chủ toạ phiên toà quyết định ngừng tiến hành tố tụng trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi có căn cứ quy định tại Điều 281 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

Thứ nhẩt, có căn cứ quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đây là trường hợp khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử; khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Thứ hai, không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử; trường hợp này phải yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can, bị cáo được thực hiện theo quy định tại Điều 231 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Thứ ba, chờ kết quả xử lí văn bản pháp luật mà toà án kiến nghị.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lí do tạm đình chỉ, số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành quyết định; căn cứ ban hành; nội dung của quyết định; họ tên, chức vụ, chữ kí của người ban hành quyết định và đóng dấu.

3. Quyết định đình chỉ vụ án

Quyết định đình chỉ vụ án là văn bản áp dụng pháp luật do thẩm phán chủ toạ phiên toà quyết định chấm dứt quan hệ pháp luật tố tụng (không tiếp tục tiến hành tố tụng) trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự khi có căn cứ quy định tại Điều 282 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc một frong các trường hợp sau:

Thứ nhất, có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 hoặc các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đó là các trường hợp:

– Người đã yêu cầu khởi tố tự nguyện rút yêu cầu khởi tố theo quy định tại khoản 2 Điều 155;

– Bị can, bị cáo chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;

– Hành vi phạm tội của bị can, bị cáo đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Tội phạm đã được đại xá;

– Bị can, bị cáo chết.

Thứ hai, viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà

Khi xét thấy có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 BLHS thì viện kiểm sát rút quyết định truy tố trước khi mở phiên toà và đề nghị toà án đình chỉ vụ án.

Quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ lí do đình chỉ và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.(1)Quyết định đình chỉ vụ án phải được giao cho bị can, bị cáo, bị hại, người đại diện của họ và gửi cho người khác tham gia tố tụng trong thời 03 ngày kể từ ngày ra quyết định (Điều 286 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, mà căn cứ để đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

4. Quyết định đưa vụ án ra xét xử

Sau khi nghiên cứu hồ sơ hoặc đã hao đổi với viện kiểm sát, nếu toà án nhận thấy có thể đưa vụ án ra xét xử thì phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền cùa toà án, khẳng định có đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử và đồng thời giải quyết những vấn đề cần thiết cho việc mở phiên toà. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải đảm bảo đúng nội dung quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

5. Quyết định phục hồi vụ án

Phục hồi vụ án trong giai đoạn xét xử là việc thẩm phán chủ toạ phiên toà hoặc chánh án toà án quyết định tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án khi CÓ lí do để huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc có lí do để huỷ bỏ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Trường hợp thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án không thể thực hiện được thì chánh án ra quyết định phục hồi.

Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo thì ra quyết định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lí do phục hồi vụ án và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Khi phục hồi vụ án, toà án có quyền áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử.

6. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

Sau khi thụ lí vụ án, thẩm phán chủ toạ phiên toà phải tiến hành kiểm tra ngay các tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Thẩm phán chủ toạ phiên toà quyết định việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Riêng việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam phải do chánh án hoặc phó chánh án toà án quyết định (Điều 278 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).

Áp dụng biện pháp tạm giam ưong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là việc chánh án hoặc phó chánh án toà án theo đề nghị của thẩm phán chủ toạ phiên toà ra lệnh tạm giam bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo chưa bị tạm giam hoặc đang bị tạm giam mà thời hạn tạm giam đã hết và xét thấy cần thiết tạm giam hoặc tiếp tục tạm giam.

Thay đổi biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử là việc chánh án hoặc phó chánh án toà án theo đề nghị của thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo mà có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác (cấm đi khỏi noi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm).

Huỷ bỏ biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là việc chánh án hoặc phó chánh án toà án theo đề nghị của thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo và cũng không cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Sau khi có quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam, nếu xét thấy cần thiết thì chánh án, phó chánh án toà án vẫn có quyền huỷ bỏ hoặc áp dụng lại biện pháp tạm giam.

Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tơà, thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà.

Trường hợp cần phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thì khi thời hạn tạm giam còn lại không quá 05 ngày mà xét thấy cần tiếp tục tạm giam thì chánh án toà án có quyền ra lệnh tạm giam tiếp. Thời hạn tạm giam trong trường hợp này không quá thời hạn gia hạn để chuẩn bị xét xử.

Đối với những vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy tố.

– Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải kịp thòi đề nghị chánh án hoặc phó chánh án toà án ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn khác trong trường họp bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo mà có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

– Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải kịp thời đề nghị chánh án hoặc phó chánh án toà án ra quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau:

+ Trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam nhưng xét thấy không cần thiết tiếp tục tạm giam bị can, bị cáo và cũng không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác;

+ Trường hợp thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định đình chỉ vụ án.

Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn phải được gửi ngay cho bị can, bị cáo, viện kiểm sát cùng cấp, trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị tạm giam.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự – Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật Minh KHuê