CƠ SỞ PHÁP LÝ

Bản tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776

Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787

Hiến pháp nước Cộng hòa Ba Lan 1997

Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993

Hiến pháp Italia 1947

Hiến pháp Nhật Bản 1946

hiến pháp cộng hòa Xéc năm 1992

Đạo luật Liên bang Áo năm 1970

NỘI DUNG TƯ VẤN​

1. Những sự kiện lịch sử có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng lập hiến ở Anh ( 1658 – 2010)

1.1 Richard Cromwell và Charles II

Cromwell mất năm 1658 và ngai vàng được truyền lại cho con trai là Richard Cromwell. Thực hiện chế độ chuyên chế quân sự nhưng Richard đã không thể thống nhất được các nhóm tôn giáo và người thiểu số. Tướng George Monk của Scotland đã tiến đánh và lật đổ ngai vàng của Richard. Sau khi nắm được chính quyền, năm 1660, George

Monk đã triệu tập những người còn lại của Nghị viện nhóm họp. Nghị viện đã biểu quyết giải tán Nghị viện để thành lập Nghị viện mới. Nghị viện được thành lập từ năm 1640 đến lúc này đã tổn tại được 20 năm nên được gọi là “Long Parliament” (Nghị viện dài). Nghị viện mới được thành lập đã quyết định tái lập chế độ quân chủ và đưa Charles II (lúc này đang còn cư trú ở Pháp) về làm Vua của Anh.

1.2 Hiệp ước liên hiệp (Treaty of Union) 1706việc thành lập Liên hiệp Anh năm 1707

Ngày 22/6/1706 Hiệp ước Liên hiệp giữa Anh và Scotland (Treaty of Union) được ký kết. Hiệp ước này đã nhanh chóng được Nghị viện của Anh và Scotland phê chuẩn. Nghị viện của Anh và Scotland cũng đã thông qua Luật liên hiệp (Act of Union) vào năm 1707.

Gần một thế kỷ sau đó, vương Quốc Ireland, đất nước đã được đặt dưới sự kiểm soát của Anh từ năm 1541 đến 1691, đã thông qua Luật liền hiệp (Act of Union) để gia nhập Liên hiệp Vương quốc Anh vào năm 1800.

Trong thế kỷ XIX Nghị viện Anh đã ban hành rất nhiều văn bản Luật liên quan đến việc mở rộng quyền bầu cử cho công dân. Thời kỳ đầu chỉ có khoảng 5% dân số có quyền bầu cử, đến nay quyền bầu cử phổ thông đầu phiếu đã được xác lập nghĩa là mọi công dân đủ 18 tuổi đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người đang ở trong giai đoạn thi hành án hình sự hoặc bị tạm giam trong giai đoạn chờ xét xử.

1.3 Cải cách toà án nửa cuối thế kỷ XIX

Trước năm 1875 ở Anh tồn tại hai hệ thống toà án cạnh tranh với nhau. Toà án thông luật (Common law Courts) là hệ thống các toà án hoàng gia xét xử theo nguyên tắc áp dụng án lệ nghĩa là các vụ án có tính chất và tình tiết giống nhau sẽ có kết quả xét xử giống nhau. Do thủ tục tố tụng của hệ thống toà án này phức tạp nên không phải bất kỳ ai cũng có thể bảo vệ được công lý thông qua hệ thống toà án này. Đây chính là lý do mà Toà đại pháp quan (Chancery Court) toà án xét xử trên cơ sở luật công bình (equity) đã ra đời. Luật công bình là tổng thể các quy phạm pháp luật do Toà đại pháp quan tạo ra để bổ sung, bù đắp những lỗ hổng của hệ thôhg thông luật thời đó. Theo nguyên tắc: Equity follows the law (Luật công bình tôn trọng luật án lệ) luật công bình không phủ định mà chỉ là sự bổ sung cho luật án lệ. Trước năm 1875 Luật công bình và thông luật có 6 điểm khác nhau cơ bản:

  • Nguồn gốc của quy phạm pháp luật thông luật là án lệ, còn nguồn gốc của quy phạm luật công bình là các nguyên tắc công bằng, công lý;
  • Quy phạm pháp luật của luật công bình chỉ được áp dụng ở Toà đại pháp quan (Chancery Court), các Toà thồng luật không được phép áp dụng;
  • Các Toà thông luật khi xét xử có đoàn bổi thẩm, ở Toà án công bình xét xử không có bồi thẩm đoàn;
  • Các Toà thông luật xét xử theo thủ tục tranh tụng đối kháng, chú trọng các luận cứ bằng lời nói, thủ tục ở Toà công bình là thủ tục thẩm vấn, coi trọng các tài liệu thành văn;
  • Toà thông luật ra các bản án, còn Toà công bình ban hành các lệnh, quyết định;
  • Khi có tranh chấp về thẩm quyền xét xử, Toà đại pháp quan thường có ưu thế hơn Toà công bình.

Luật Toà án tối cao năm 1873 (Supreme Court Of Judicature Act 1873) đã thành lập Toà án tối cao bao gồm hai bộ phận là Toà án cấp cao (High Court of Justice) và Toà phúc thẩm (Court of Appeal). Toà án cấp cao bao gồm ba phân toà là Chancery Division (Toà Đại pháp quan); Family Division (Toà gia đình); Queen Bench,s Division (Toà nữ hoàng). Với sự cải cách này hai hệ thống toà án thông luật và luật công bình đã hoà nhập vào một và trở thành các toà chuyên trách của Toà án cấp cao. Hai hệ thống toà án này vẫn giữ những nét đặc trưng của mình tuy nhiên Luật mới đã cho phép tất cả các toà có thể áp dụng cả Thông luật và Luật công bình. Cùng với việc cải tổ hệ thống toà án, Luật Toà án tối cao năm 1873 cũng đã đơn giản hoá thủ tục tố tụng bằng cách quy định tất cả các loại vụ việc đều được bắt đầu bằng một loại trát gọi là trát triệu tập. Cuộc cải cách thủ tục tố tụng này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì trước cuộc cải cách này ở các Toà án thông luật ở Anh có đến khoảng 80 loại trát khác nhau phụ thuộc vào các hình thức khởi kiện khác nhau. Hệ thống trát phức tạp này đã làm cho nhiều người dân không thể tiếp cận được công lý.

Một đạo luật quan trọng khác được ban hành trong thời gian này là Luật về thẩm quyền xét xử phúc thẩm 1876 (Appellate Juridiction Act, 1876). Đạo luật này đã thành lập Uỷ ban tư pháp của Thượng viện là cơ quan xét xử phúc thẩm cuối cùng ở Anh. Như vậy Thượng viện Anh vừa là một trong hai viện của cơ quan lập pháp đồng thời là cơ quan nắm quyền tư pháp tối cao.

1.4 Những cải cách của Công đảng vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế ky XXI

Từ năm 1997 đến năm 2010 Công đảng cầm quyền và đã tiến hành các cuộc cải cách đáng lưu ý sau đây:

  • Thành lập Nghị viện ở Scotland và Hội đồng ở xứ Wales và Bắc Alien (Northern Ireland) với cách thức bầu cử trực tiếp;
  • Thành lập Hội đồng ở London kết hợp với chức vụ Thị trưởng do dân trực tiếp bầu;
  • Thực hiện cải cách Thượng viện, huỷ bỏ 92 chức vụ Thượng nghị sĩ là quý tộc kế truyền (House of Lords Act 1999);
  • Nội luật hoá Công ước châu Âu về quyền con người bằng việc ban hành Luật về quyền con người (Human Rights Act) năm 1998;
  • Ban hành Luật về tự do thông tin (Freedom of Information Act) năm 2000;
  • Ban hành Luật về các đảng phái chính trị, bầu cử và trưng cầu dân ý (The Political Parties, Elections and Referendum Act) năm 2000;
  • Thành lập Uỷ ban bầu cử (Electoral Commission) để tổ chức thực hiện các hoạt động bầu cử và trưng cầu dân ý.
  • Thành lập ngân hàng nước Anh độc lập với tất cả các thiết chế khác;
  • Thành lập Toà án tối cao ngày 1 tháng 10 năm 2009.

Sự thành lập Toà án tối cao được tiến hành trên cơ sở Luật cải cách hiến pháp năm 2005 (Constitutional Reform Act 2005). Toà án tối cao bao gồm 12 thẩm phán do Nữ hoàng bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng.

Toà án Tối cao của Liên hiệp Anh là toà phúc thẩm cuối cùng và cao nhất đối với tất cả các vụ án trên tất cả các lĩnh vực hình sự, dân sự (hành chính, thương mại, lao động) của Anh, xứ Wales và Bắc Alien và lĩnh vực dân sự của Scotland. Đối với lĩnh vực hình sự ở Scotland thì Toà án tư pháp cấp cao (High Court of Judiciary) vẫn là cơ quan xét xử phúc thẩm hình sự cao nhất. Với việc thành lập Toà án tối cao Liên hiệp vương quốc Anh đã tách quyền tư pháp ra khỏi Thượng viện, một bước tiến quan trọng trong việc thực hiện nguyên tắc phân chia quyền lực giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

2. Các cơ quan tư pháp của Anh:

Tổ chức tư pháp ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen có một số đặc điểm chung sau đây:

  • Tổ chức tư pháp đảm bảo cho các thẩm phán hoàn toàn độc lập trong xét xử bằng các giải pháp hữu hiệu như thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời và được trả lương cao.
  • Hệ thôhg toà án hoạt động theo thủ tục tranh tụng đối kháng, ở đó vai trò Luật sư của LVN Group trong tố tụng đặc biệt quan trọng. Chính các Luật sư của LVN Group của các bên là những người làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Thẩm phán chỉ đóng vai trò trọng tài lắng nghe và phán xét. Các vụ án dân sự được coi là sự đấu trí của Luật sư của LVN Group các bên nguyên đơn và bị đơn, trong các vụ án hình sự thì dó là sự đấu trí của Luật sư của LVN Group bào chữa và công tố viên buộc tội. Hệ thống tranh tụng đối kháng coi trọng sự tranh tụng bằng lời tại công đường và tránh được hiện tượng “án bỏ túi” thường có trong hệ thống tố tụng thẩm vấn.
  • Một đặc điểm đáng lưu ý là do coi trọng nguồn luật án lệ nên thẩm phán ở vương quốc Anh bằng việc tạo ra án lệ cũng là những người sáng tạo pháp luật.
  • Mặc dù cùng chung hệ thống pháp luật nhưng hệ thống toà án Anh và Mỹ hoàn toàn khác nhau. Do Mỹ là nhà nước liên bang nên có hai hệ thống toà án tồn tại song song, toà án bang và toà án liên bang, còn Anh là nhà nước đơn nhất nên chỉ có một hệ thống toà án. Ở Mỹ cơ quan có thẩm quyền tư pháp tối cao là Toà án tối cao (Supreme Court) được thành lập từ khi có Hiến pháp 1787, trong khi đó ở Anh cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI vẫn là Thượng viện (House of Lords), mãi đến tháng 10/2009 mới thành lập Toà án tối cao.

a. Sơ đồ các Toà án xét xử dân sự

Sơ đồ các Toà án xét xử dân sự (Courts exercising civil jurisdiction)

Hight court of justice (Toà án cấp cao)

Chancery Division (Toà đại pháp quan)

Family Division (Toà hôn nhân và gia đình)

Queens bench Division (Toà nữ hoàng)

 

County Courts’

(Toà án quận)

 

b. Sơ đồ các Toà án xét xử hình sự

Sơ đồ các Toà án xét xử hình sự (The courts exercising criminale jurisdiction)

(1) Magistrates’ courts: Toà hình sự nhỏ (Toà vi cảnh) phạt tiền hoặc phạt tù từ 6 tháng trở xuống. Nước Anh có 1.000 Magistrates’ courts.

(2) Crown Court – Toà Vương miện);

(3) Queen’S bench division: Toà nữ hoàng;

(4) Court of appeal – Criminal Division: Toà phúc thẩm – phân toà hình sự.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hang còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group