1. Mở đầu

Giai đoạn điều tra góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát hiện chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Thực hiện mục tiêu đó, pháp luật dành cho giai đoạn này khoảng thời gian dài nhất nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ. Theo dõi quá trình cải cách tư pháp ở nước ta luôn đặt trách nhiệm rất lớn với Viện kiểm sát trong toàn bộ tiến trình tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ; Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra .

Nhằm thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện kiểm sát và tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.

2. Bổ sung và quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung và quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Điều 165 và Điều 166).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự: Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật; Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật này quy định; Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do….

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết….

3. Bổ sung thêm các trường hợp bắt buộc Kiểm sát viên phải tham gia

Nhằm tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, ngoài 02 hoạt động bắt buộc có sự tham gia của Kiểm sát viên hiện nay (khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi), Bộ luật TTHS 2015 bổ sung thêm 05 trường hợp bắt buộc Kiểm sát viên phải tham gia, gồm: đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét, thực nghiệm điều tra (các điều 189, 190, 191, 193, 201, 202, 204).

– Đối chất: Trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai người hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn thì Điều tra viên tiến hành đối chất. Trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản đối chất.

Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể tiến hành đối chất. Việc đối chất được tiến hành theo quy định tại Điều 189 Bộ luật TTHS 2015.

– Nhận dạng: Khi cần thiết, Điều tra viên có thể đưa người, ảnh hoặc vật cho người làm chứng, bị hại hoặc bị can nhận dạng. Số người, ảnh hoặc vật đưa ra để nhận dạng ít nhất phải là ba và bề ngoài phải tương tự nhau, trừ trường hợp nhận dạng tử thi.

Trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận dạng. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng.

– Nhận biết giọng nói: Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.

Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.

– Khám xét: Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS 2015 có quyền ra lệnh khám xét. Lệnh khám xét của những người được quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật TTHS 2015 phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành. Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.

4. Hoạt động trưng cầu giám định và yêu cầu định giá tài sản

Nhằm kiểm sát chặt chẽ hoạt động trưng cầu giám định và yêu cầu định giá tài sản, Bộ luật quy định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản hoặc kể từ khi nhận được kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định, yêu cầu, kết luận này cho Viện kiểm sát (các điều 205, 213, 215, 221).

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.

– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận giám định, cơ quan đã trưng cầu, người yêu cầu giám định phải gửi kết luận giám định cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.

– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, cơ quan yêu cầu định giá phải giao hoặc gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản, hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá tài sản cho Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận định giá tài sản, cơ quan đã yêu cầu, người yêu cầu định giá tài sản phải gửi kết luận định giá tài sản cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.

5. Một số sửa đổi, bổ sung khác

Nhằm giúp cho Viện kiểm sát thực hiện tốt trách nhiệm phê chuẩn các quyết định tố tụng, Bộ luật TTHS 2015 một mặt tiếp tục kế thừa quy định trong Bộ luật TTHS 2003, theo đó trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải phê chuẩn hoặc hủy bỏ; đồng thời bổ sung quy định trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 179 và Điều 180).

Nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm quyền, Bộ luật đã được bổ sung đầy đủ các trường hợp Viện kiểm sát quyết định chuyển vụ án, gồm: khi có đề nghị của Cơ quan điều tra cùng cấp; khi Cơ quan điều tra cấp trên rút vụ án để điều tra; khi Điều tra viên bị thay đổi là Thủ trưởng Cơ quan điều tra; khi Viện kiểm sát đã yêu cầu chuyển vụ án nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện (Điều 169).

Nhằm bảo đảm cho Kiểm sát viên nắm chắc chứng cứ, tài liệu trong giai đoạn điều tra, Bộ luật TTHS 2015 quy định cụ thể những trường hợp Viện kiểm sát phải trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra thay cho quy định có tính chất định tính “xét thấy cần thiết” như Bộ luật 2003, gồm: trường hợp cần kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục; trường hợp cần kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố (Điều 165).

Khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ hoặc vi phạm pháp luật, Bộ luật TTHS 2015 quy định Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động cụ thể sau: tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật; kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc điều tra (Điều 166).

Nhằm đáp ứng yêu cầu điều tra đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn tạm giam đã hết nhưng không có căn cứ để hủy bỏ biện pháp tạm giam, Bộ luật được bổ sung quy định Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra (Điều 173).

Nhằm kiểm sát chặt chẽ hoạt động điều tra và tiến độ điều tra, Bộ luật được bổ sung quy định: trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra (Điều 88).

Bổ sung quy định trong thời hạn 05 ngày, Viện kiểm sát cấp trên phải trả lời kiến nghị của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 167), Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thiếu thời hạn này.

Nhằm giải quyết xung đột giữa các kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, Bộ luật TTHS 2015 quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền quyết định việc giám định lại, định giá lại; kết luận giám định, kết luận định giá tài sản trong trường hợp này được sử dụng để giải quyết vụ án (Điều 212 và Điều 220).

Những sửa đổi, bổ sung nêu trên một mặt tháo gỡ những khó khăn của Viện kiểm sát trong thực tiễn thi hành luật thời gian qua; mặt khác, đặt ra trách nhiệm với mỗi Kiểm sát viên phải chủ động hơn, trách nhiệm hơn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)