1. Giới thiệu

Giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn đầu tiên của tố tụng, có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thu nhận thông tin ban đầu về tội phạm, xác định những căn cứ cần thiết để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Làm tốt giai đoạn này sẽ giúp xử lý nhanh chóng, chính xác thông tin tội phạm, tạo cơ sở để các giai đoạn tố tụng tiếp theo phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh tội phạm hoặc kịp thời đình chỉ việc giải quyết đôi với những hành vi không có dấu hiệu tội phạm.

Xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng đó, trên cơ sở 10 điều của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã hoàn thiện giai đoạn khởi tố vụ án hình sự với 20 điều luật nhằm quy định đầy đủ, cụ thể các trình tự, thủ tục tố tụng, trong đó sửa đổi, bổ sung nhiều quy định liên quan đến Viện kiểm sát.

2. Thời điểm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định thời điểm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố sớm hơn từ khi “giải quyết nguồn tin về tội phạm” (Điều 159), thay cho quy định hiện hành “từ khi khởi tố vụ án”.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm: Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này; Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện; Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự; Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong các trường hợp do Bộ luật này quy định; Hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.

3. Thẩm quyền giải quyết tố giác, báo tin về tội phạm

Để kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát, thay cho quy định hiện hành “trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày xác định được thông tin đó là tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quy định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú, Cơ quan điều tra phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát (Điều 146 và Điều 152).

Nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục (Điều 145).

Nhằm khắc phục những khó khăn của thực tiễn, đồng thời tránh lạm dụng kéo dài thời gian giải quyết, Bộ luật quy định thời hạn tối đa giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là 04 tháng thay cho quy định 02 tháng hiện nay, nhưng việc gia hạn phải do Viện kiểm sát quyết định (Điều 147).

4. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung cho Viện kiểm sát nhiệm vụ giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tại Điều 150.

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết.

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp tỉnh, giữa các Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết. Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các Cơ quan điều tra quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi đầu tiên tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giải quyết.

Tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố giữa các Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết.

5. Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

Nhằm tháo gỡ những bất cập trong thực tiễn, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung chế định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; đồng thời, nhằm bảo đảm việc tạm đình chỉ đúng luật, Bộ luật quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ và hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ nếu không đúng căn cứ luật định (Điều 148).

“Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát và gửi quyết định tạm đình chỉ đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Trường hợp quyết định tạm đình chỉ không có căn cứ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ để tiếp tục giải quyết. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kể từ ngày Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận được quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ.”

6. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự

Đồng thời với việc tiếp tục quy định 02 trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án như trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (khi Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra và khi Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án), Bộ luật tố tụng hính sự 2015 bổ sung thêm 02 trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án, gồm: trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà phát hiện dấu hiệu tội phạm và trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ (Điều 153).

1. Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.

2. Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp quy định tại Điều 164 của Bộ luật này.

3. Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp:

a) Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

b) Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;

c) Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

4. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

7. Một số bổ sung khác

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự 2013 cũng bổ sung và quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố vụ án hình sự (các điều 159, 160 và 161).

Bổ sung điều luật quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong việc khởi tố; nếu không nhất trí vẫn phải thực hiện nhưng có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên (Điều 162).

Những sửa đổi, bổ sung nêu trên sẽ góp phần quan trọng tháo gỡ những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn thi hành luật, bảo đảm các hoạt động tố tụng được kiểm sát chặt chẽ ngay từ giai đoạn đầu

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)