1. Mở đầu

Tách truy tố khỏi phần điều tra và xây dựng thành một phần độc lập trong Bộ luật (Phần thứ ba) là nội dung đổi mới quan trọng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Đây không chỉ sự đổi mới có tính kỹ thuật mà là cơ sở để hoàn thiện các quy định về truy tố với ý nghĩa là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Trên cơ sở 04 điều của Bộ luật hiện hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xây dựng 14 điều luật, kết cấu thành 02 chương với nhiều nội dung bổ sung quan trọng.

2. BLTTHS 2015 quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố

Quy định đầy đủ, cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn truy tố (Điều 236 và Điều 237).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra; Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra; Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung; Quyết định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; Quyết định truy tố; Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án đối với bị can; quyết định phục hồi vụ án, quyết định phục hồi vụ án đối với bị can; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo quy định của BLTTHS 2015.

Khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để kiểm sát trong giai đoạn truy tố theo quy định của BLTTHS 2015.

3. Thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát

BLTTHS 2015 quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án; đồng thời, để giải quyết những vướng mắc hiện nay liên quan đến vấn đề “ủy quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử’, phù hợp với nguyên tắc “phân công, phối hợp và kiểm soát việc thực hiện quyền lực trong tổ chức bộ máy nhà nước ta”, Bộ luật này quy định: “Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử” (khoản 1 Điều 239).

4. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Ngoài việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định hiện hành, BLTTHS 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế, gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản (Điều 241).

“Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 240 của Bộ luật này.”

5. Thẩm quyền nhập, tách vụ án

BLTTHS 2015 quy định trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát có quyền tách, nhập vụ án nhằm bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, kịp thời, đúng pháp luật, khắc phục khoảng trống hiện nay của pháp luật do thiếu quy định này nên phải xử lý bằng cách trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra với lý do “để điều tra bổ sung” (Điều 242).

Viện kiểm sát quyết định nhập vụ án khi thuộc một trong các trường hợp:

  • Bị can phạm nhiều tội;
  • Bị can phạm tội nhiều lần;
  • Nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có.

Viện kiểm sát quyết định tách vụ án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây nếu xét thấy việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và đã có quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can:

  • Bị can bỏ trốn;
  • Bị can mắc bệnh hiểm nghèo;
  • Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

6. Các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung

BLTTHS 2015 quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhằm tránh lạm dụng, kéo dài thời gian giải quyết; đồng thời, quy định khi Tòa án trả lại hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nếu xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung chứng cứ nhằm bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án (Điều 246).

Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải xem xét căn cứ của việc yêu cầu điều tra bổ sung và giải quyết như sau:

– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

Trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản nội dung bản cáo trạng trước đó thì Viện kiểm sát phải ra bản cáo trạng mới thay thế và chuyển hồ sơ đến Tòa án. Trường hợp kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết;

– Nếu quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung không có căn cứ thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do, giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án.

7. Những trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án

BLTTHS 2015 bổ sung và quy định cụ thể những trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án nhằm tháo gỡ vướng mắc cho thực tiễn; trên cơ sở đó, ngoài những trường hợp tạm đình chỉ vụ án trong Bộ luật hiện hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cho phép tạm đình chỉ trong trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố.

Theo Điều 247:

  • Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp:
  • Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố;
  • Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật này;
  • Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả.

8. Một số sửa đổi, bổ sung khác

Ngoài những sửa đổi, bổ sung trên, BLTTHS 2015 còn:

– Bổ sung đầy đủ nội dung của bản cáo trạng, bảo đảm việc truy tố chặt chẽ, toàn diện (Điều 243).

– Bộ luật tiếp tục kế thừa quy định hiện hành về thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án là 03 ngày kể từ ngày ra bản cáo trạng; tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, nhất là đối với những vụ án có đông bị can, bị can cư trú tại nhiều địa phương khác nhau, Bộ luật quy định đối với những vụ án phức tạp thì thời hạn chuyển hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày (Điều 244).

– Nhằm tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong nội bộ, Bộ luật quy đỊnh mọi quyết định ban hành trong giai đoạn truy tố phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên; Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, huỷ bỏ các quyết định đó nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới ra quyết định đúng pháp luật (Điều 240).

– Bổ sung chế định phục hồi vụ án trong giai đoạn truy tố nếu có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc trường hợp vụ án bị đình chỉ theo khoản 5 và khoản 6 Điều 157 của Bộ luật tố tụng hình sự mà bị can không đồng ý và yêu cầu phục hồi vụ án; thời hạn quyết định việc truy tố trong trường hợp phục hồi vụ án được tính theo thủ tục chung (Điều 249).

– Bổ sung trách nhiệm và thời hạn 10 ngày các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thông báo việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị cho Viện kiểm sát (Điều 237).

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)