1. Khái quát chung về qui chế thương nhân

1.1 Khái quát chung

Một người muôn trở thành một thương nhân phải có đủ năng lực hành nghề thương mại. Năng lực này do pháp luật qui định. Và trong quá trình thực hiện các hành vi thương mại, thương nhân phải tuân thủ các nghĩa vụ của thương nhân do pháp luật qui định. Mặc dù hành nghề thương mại là một phương thức kiếm sống gắn chặt với quyền được sôhg của con người, nhưng bởi việc hành nghê’ thương mại có ảnh hưởng lớn tới cộng đồng, nên việc kiểm soát các thương nhân là một việc làm cần thiết. Tổng thể các qui định pháp luật xác định các điểu kiện để trở thành thương nhân, và xác định, giới hạn các quyền lợi của thương nhân nói chưng được xem là qui chế thương nhân.
Pháp luật Việt Nam hiện nay râ’t chú trọng tới quyền được thành lập doanh nghiệp hay quyền tự do kinh doanh của công dân và người nước ngoài. Luật Doanh nghiệp 2020 tuyên bố: Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Tuyên bố này cho thâỳ việc vào nghề của thương nhân luôn được tạo điều kiện thuận lợi. Gắn liền với tuyên bô’ này, Luật Thương mại 2005 có hai tuyên bố quan trọng liên quan tới hoạt động của thương nhân là: “Thương nhân có quyêh hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm”, và “Quyêh hoạt động thương mại hợp pháp của thương nhân được Nhà nước bảo hộ” (Điều 6, khoản 1 và khoản 2). Các tuyên bố này được đưa ra phù hợp với các tư tưởng chỉ đạo khi xây dựng các đạo luật này là: (1) Thể chế hóa đâ’y đủ và nhâ’t quán chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhất là về phát triêh kinh tế thị trường; (2) coi khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là chức năng chính của Nhà nước; (3) tôn trọng tự do thỏa thuận, định đoạt các vân để nội bộ của doanh nghiệp; (4) đơn giản hóa thủ tục; (5) giảm và tiên tới xóa bỏ sự phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; (6) tôn trọng cam kết quô’c tế, nhất là các nguyên tắc cơ bản như “Qui chê’đối xử quốc gia” và “Qui chế tối huệ quốc”; (7) chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động dưới các hình thức công ty; (8) đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước; (9) kế thừa và phát triêh những đổi mới và tiến bộ của pháp luật; (10) mở rộng và phát triển quyêh tự do kinh doanh .

Nội dung chính về quy chế thương nhân và điều kiện để trở thành thương nhân?

>> Luật sư tư vấn pháp luật Doanh nghiệp, gọi: 1900.0191

1.2 Phân loại quy chế thương nhân

Qui chế thương nhân có thê’ được chia thành hai loại là qui chế thông thường và qui chế đặc biệt. Qui chế thông thường áp dụng cho thương nhân thực hiện các hành vi thương mại trong các ngành nghề không bị hạn chế. Còn qui chế đặc biệt áp dụng cho thương nhân thực hiện các hành vi thương mại trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Do vậy qui chê’thương nhân có thể bao gồm các qui định của nhiều đạo luật khác nhau, chẳng hạn, ở Việt Nam, là các đạo luật như: Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Dầu khí, Luật Hàng không dân dụng, Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Giáo dục, Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Luật sư, Luật Công chứng… Đặc biệt, có những ngành nghê’ câm kinh doanh mà danh mục của nó được qui định rành mạch bởi pháp luật. Các qui định câm này có thể có tại nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác liên quan. Việc kinh doanh các ngành, nghề này gây ảnh hưởng nghiêm trọng tói trật tự công cộng, sự tổn tại của cộng đồng, và đạo đức.
Các điều kiện kinh doanh đặc biệt được thể hiện dưới các hình thức sau: Giâỳ phép kinh doanh; Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; Chứng chỉ hành nghề; Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghê’ nghiệp; Xác nhận vôh pháp định; Chap nhận khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các yêu cầu khác buộc phải làm thỏa mãn mới được quyền kinh doanh.
Trước kia, Luật Thương mại có một mục riêng vói 20 điều nói vê’ qui chế thương nhân. Tuy chưa thật đâ’y đủ nhưng cũng giúp cho việc tìm hiêù qui chế thương nhân đơn giản hơn. Hiện nay Luật Thương mại 2005 không có các qui định tập trung như vậy, trong khi Luật Doanh nghiệp 2020 không khái quát hóa vân đê’ theo hướng qui chê’ thương nhân mà lại xem xét vân đê’ dưới giác độ gần gũi với kinh tếhọc (chỉ nhắm tói doanh nghiệp), nên trong một chừng mực nhâ’t định gây khó khăn cho việc tìm hiểu qui chế thương nhân. Bởi vậy cần xem doanh nghiệp là một chế định của luật thương mại để có thể hiểu được qui chế thương nhân ở Việt Nam hiện nay.

1.3 Các quyền cơ bản của thương nhân

Thương nhân có các quyền cơ bản sau đây theo Luật Doanh nghiệp 2020: (1) Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ’động mở rộng quy mô và ngành, nghê’ kinh doanh; được Nhà nước khuyên khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuâ’t, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; (2) lựa chọn, hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vôh; (3) chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đổng; (4) kinh doanh xuâ’t khẩu, nhập khẩu; (5) tuyêh dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh; (6) chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh; (7) chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp; và (8) từ chối mọi yêu cầu cung câ’p các nguồn lực không được pháp luật quy định. Điều luật này còn qui định thương nhân có quyền liên quan tới khiếu nại, tô’ cáo, và quyền tham gia tô’ tụng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn rất nhiều quyền khác mà điều luật này không thể liệt kê đầy đủ. Thực ra việc qui định liệt kê các quyền này không hoàn toàn cần thiết trong một chế độ tự do ý chí và tự do kinh doanh bởi tâ’t nhiên là thế, nhưng lại có ý nghĩa đôì với một nền kinh tế chuyển đổi mà trong đó còn nhiều sự cản trở đối với các tự do này.
Đối lại với các quyền này, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về các nghĩa vụ của doanh nghiệp, bao gồm: (1) Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giây chứng nhận đăng ký kinh doanh; (2) bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; (3) tổ chức công tác kế toản, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán; (4) đăng ký mã số thuê’, kê khai thuê’, nộp thuê’ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; (5) bảo đảm quyền, lọi ích người lao động theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chê’độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tê’và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm; (6) bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuâh đã đăng ký hoặc công bố; (7) thực hiện chê’ độ thống kê theo quy định của pháp luật về thôhg kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp; tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc bẩo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ phải lịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó; và (8) tuân thủ quy định của pháp luật về quô’c phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh. Ngoài ra, thương nhân còn có các nghĩa vụ khác theo quy định của các văn bản pháp luật khác.

2. Điều kiện để trở thành thương nhân

Luật Thương mại 1997 xuất phát từ việc phân loại thương nhân thành thương nhân thể nhân và các thương nhân “tổ chức” nên qui định cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và tổ chức (pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình) hội đủ các điều kiện theo qui định của pháp luật có thể trở thành thương nhân. Tuy nhiên muốn trở thành thương nhân phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh (Điều 17). Luật Thương mại 2005 không có các qui định riêng về điều kiện trở thành thương nhân, có lẽ bởi không muôn xâm lân sang địa hạt của Luật Doanh nghiệp 2020. Thế nhưng về mặt học thuật có lẽ mọi người đều hiểu Luật Doanh nghiệp 2020 qui định về các thương nhân. Do đó nhiều người ví von rằng đạo luật này là “một bộ luật vê’ thương nhân”. Vì vậy khi nghiên cứu qui chế thương nhân không thể không đề cập tới cả hai đạo luật này.
Đôi với cá nhân, việc vào nghề thương mại hay trở thành thương nhân trước hết, theo pháp luật của các nước, cũng như của Việt Nam, phải có năng lực hành vi dân sự đâ’y đủ (điều kiện cần), và không bị câm (điều kiện đủ). Pháp luật Việt Nam hiện nay câm các cá nhân sau trở thành thương nhân: (1) cán bộ, công chức (nêù có qui định của pháp luật vê’ cán bộ, công chức); (2) quân nhân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng của Việt Nam; (3) sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp thuộc lực lượng công an Việt Nam; (4) người lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vôh sở hữu nhà nước; (5) người đang châp hành hình phạt tù hoặc bị tòa án câm hành nghề thương mại; và (6) những ngưởi bị câm khác theo qui định của pháp luật phá sản. Lưu ý, Điều luật này cần được giải thích theo hướng: khi một người không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp thì cũng đồng nghĩa với việc anh ta không được đăng ký kinh doanh để trớ thành thương nhân. Các qui định câm như vậy là cần thiết trong công cuộc xây dựng một nền thương mại lành mạnh, hiệu quả, và tránh sự lạm dụng vị thế được cộng đồng giao cho để trục lợi cá nhân và tránh gây ảnh hưởng không tốt tới cộng đổng.
Các điều kiện trên có thể tóm gọn lại thành ba nhóm điều kiện: (1) Vô năng; (2) bị tước quyền; và (3) không thể kiêm nhiệm. Trong các nhóm điều kiện trên, Jihóm điều kiện thứ ba được tranh luận nhiều không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở các nước khác trên thế giói. Phạm vi những người không thể kiêm nhiệm rộng hẹp tùy từng hoàn cảnh hoặc thời điểm nhâ’t định. Chẳng hạn vài năm trước ở Việt Nam có quan niệm Đảng viên không tham gia bóc lột. Do đó việc trở thành thương nhân của Đảng viên, là không thể. Nhưng hiện nay có sự thay đổi về quan niệm, nên phạm vi những người không thể kiêm nhiệm hẹp lại.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp – Công ty luật LVN Group