1.Đề nghị truy tố là gì ?

Trước hết, đề nghị truy tố có thể hiểu sơ bộ là ý chí của cơ quan điều tra tới Viện Kiểm sát khi có căn cứ. Xuất phát từ việc, truy tố là một giai đoạn trong tố tụng hình sự, là việc đưa bị can ra trước tòa án do đó, đề nghị truy tố là căn cứ quan trọn quyết định đến rằng Viện kiể sát có đưa ra quyết định truy tố hay không.

>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự, gọi: 1900.0191

Đề nghị truy tố là hình thức kết thúc điều tra do cơ quan điều tra thể hiện trong bản kết luận điều tra và gửi tới Viện kiểm sát có thẩm quyền.

Đề nghị truy tố được thể hiện theo thủ tục thông thường được thể hiện trong bản kết luận điều tra, còn đối với thủ tục rút gọn, đề nghị truy tố được cơ quan điều tra thể hiện trong quyết định đề nghị truy tố.

2. Đề nghị truy tố theo thủ tục tố tụng rút gọn

Đề nghị truy tố theo thủ tục rút gọn được thể hiện trong văn bản quyết định đề nghị truy tố mà không thực hiện bản kết luận điều tra, cụ thể:

“1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là 20 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

2. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố.

>> Xem thêm: Phiên tòa là gì ? Quy định pháp luật về phiên tòa ?

Quyết định đề nghị truy tố ghi tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định đề nghị truy tố, Cơ quan điều tra phải giao quyết định đề nghị truy tố cho bị can hoặc người đại diện của bị can, gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ và chuyển quyết định đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát.”

Mặc dù có sự khác nhau trong cách gọi tên, tuy nhiên về cơ bản giữa bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và quyết định đề nghị truy tố có nội dung giống nhau.

So sánh với quy định tại Điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự cũ, một điểm tích cực được đánh giá ở Bộ luật tố tụng hình sự cũ là đã khẳng định “Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố”, đây là điều không được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tuy nhiên, điều 321 lại tiến bộ hơn trong việc quy định cụ thể về nội dung quyết định đề nghị truy tố, nghĩa vụ giao quyết định truy tố.

3. Quy định về quyết định truy tố

1. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát ra một trong các quyết định:

a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định truy tố;

b) Không truy tố bị can và ra quyết định đình chỉ vụ án;

>> Xem thêm: Hoãn phiên tòa là gì ? Tìm hiểu về hoãn phiên tòa hình sự, dân sự

c) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

d) Tạm đình chỉ vụ án;

đ) Đình chỉ vụ án.

2. Quyết định truy tố ghi tóm tắt hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; đặc điểm nhân thân của bị can, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nêu rõ lý do và căn cứ truy tố; tội danh, điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng; ghi rõ thời gian, địa điểm, họ tên và chữ ký của người ra quyết định.

3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định truy tố, Viện kiểm sát phải giao quyết định cho bị can hoặc người đại diện của họ; gửi cho Cơ quan điều tra, người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ và chuyển quyết định truy tố cùng hồ sơ vụ án cho Tòa án.

4. Đề nghị truy tố theo thủ tục tố tụng thông thường

Nghĩa vụ thực hiện đề nghị truy tố được quy định tại điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự, theo đó: Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra. Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, Cơ quan điều tra phải giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp; giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho người bào chữa; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Quy định này cho thấy, thực tế, không phải lúc nào kết thúc điều tra cũng bắt buộc cơ quan điều tra phải đề nghị truy tố, tùy thuộc vào các trường hợp nhất định, căn cứ luật định để cơ quan này tiến hành đưa ra bản kết luận điều tra phù hợp.

>> Xem thêm: Chứng minh trong tố tụng dân sự là gì ? Quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự theo Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành?

Trong trường hợp đề nghị truy tố, bản kết luận điều tra đề nghị truy tố phải đảm bảo các nội dung: diễn biến hành vi phạm tội; chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can, thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; lý do và căn cứ đề nghị truy tố; tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật hình sự được áp dụng; những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án.

Bản kết luận điều tra phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra kết luận; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận điều tra.

Việc giao bản kết luận điều tra đề nghị truy tố với các nội dung trên cho Viện Kiểm sát là cơ sở để Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định truy tố phù hợp với các căn cứ trong quá trinh điều tra. Việc giao, nhận bản kết luận điều tra được quy định tại Điều 238 như sau:

– Khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giao hồ sơ vụ án kèm theo bản kết luận điều tra đề nghị truy tố và vật chứng (nếu có) thì Viện kiểm sát phải kiểm tra và xử lý như sau:

+ Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng và bản kết luận điều tra đã được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án;

+ Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) không đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng hoặc bản kết luận điều tra chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản kết luận điều tra cho bị can hoặc người đại diện của bị can.

– Việc giao, nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này và đưa vào hồ sơ vụ án.

Đề nghị truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũ đã dành riêng Điều 163 để nêu rõ :

“1. Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố.

2. Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu có.”

So sánh quy định tại Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 163 Bộ luật tố tụng hình sự cũ thì về kỹ thuật lập pháp đã có sự thay đổi, trước hết về tên gọi: Điều 232: Kết luận điều tra trong trường hợp đề nghị truy tố và điều 163: Đề nghị truy tố; sự thay đổi tên này phù hợp hơn trong sự thống nhất của bộ luật tố tụng hình sự khi theo thủ tục rút gọn, bản kết luận điều tra sẽ không được áp dụng. Thứ hai, nội dụng đề nghị truy tố được quy định tại điều 232 quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn.

5. Rút quyết định truy tố theo quy định của BLTTH 2015

Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 320, Điều 325, khoản 4 Điều 326 của BLTTHS năm 2015 thì cùng với việc luận tội nếu kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án. Nếu kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút đó. Khi nghị án, nếu Hội đồng xét xử cho rằng việc rút quyết định truy tố đúng đắn thì ra bản án tuyên bị cáo vô tội; nếu thấy bị cáo có tội và rút quyết định truy tố không đúng, thì ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

>> Xem thêm: Giai đoạn tố tụng là gì ? Khái niệm về giai đoạn tố tụng

Điểm bất cập là, khi kiểm sát viên rút quyết định truy tố, nhưng Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án hoặc kiến nghị lên kiểm sát viên cấp trên, điều này không phù hợp bởi lẽ nếu kiểm sát viên đã rút quyết định truy tố (rút toàn bộ cáo trạng) thì đương nhiên sẽ không có lời luận tội, cũng không có việc đối đáp tranh luận giữa các bên và nếu Tòa án vẫn tiếp tục xét xử, vẫn ra bản án thì trái với chức năng xét xử của Tòa án, qua đó xâm phạm đến quyền lợi của người bị buộc tội.

Thứ hai, đối với trường hợp sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trước khi phiên tòa được mở, Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố và thông báo đến Tòa án thì cần phải được nghiên cứu, hiện có hai quan điểm:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Căn cứ vào điểm b khoản 1, Điều 282 BLTTHS 2015 Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án.

Quan điểm thứ hai cho rằng, khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm quyền thuộc về Hội đồng xét xử mà không phải thuộc về thẩm phán nữa vì luật đã quy định trong thời hạn chuẩn bị xét xử thì thẩm phán phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án. Điều này để đảm bảo tính hiệu lực của quyết định đưa vụ án ra xét xử và nguyên tắc xét xử có hội thẩm tham gia. Do vậy, Tòa án phải mở phiên tòa và thực hiện trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập