1. Cách hiểu đúng về phá sản công ty , giải thể doanh nghiệp ?
Luật sư phân tích:
phá sản doanh nghiệp được hiểu là tình trạng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Còn giải thể doanh nghiệp được hiểu là việc doanh nghiệp chấm dứt hoạt động kinh doanh do đã đạt được những mục tiêu đặt ra hoặc bị giải thể theo quy định cuẩ pháp luật
Phá sản và giải thể khác nhau cơ bản ở những điểm sau:
Một là, về lý do dẫn đến giải thể, phá sản:
– Đối với giải thể: Doanh nghiệp có thể giải thể vì nhiều lý do như: chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu khác không muốn tiếp tục hoạt động (giải thể tự nguyện); khi rơi vào các trường hợp bắt buộc giải thể theo quy định của pháp luật, ví dụ: hết thời hạn hoạt động mà không gia hạn; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,..
– Đối với phá sản: Khi doanh nghiệp không thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
Hai là, về cơ quan có thẩm quyền giải quyết
– Đối với giải thể: chủ sở hữu/hoặc các chủ sở hữu tự tiến hành, sau đó gửi hồ sơ về giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh để xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh.
– Đối với phá sản: Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành.
Ba là, về hậu quả pháp lý
– Đối với giải thể: chủ sở hữu, các thành viên quản lý điều hành không bị hạn chế quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp của họ bị giải thể.
– Đối với phá sản: chủ sở hữu, các thành viên của hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc doanh nghiệp không được thành lập, không được làm người quản lý, điều hành bất cứ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1 năm đến 3 năm kể từ khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản.
Như vậy, trên cơ sở phân biệt thủ tục phá sản và giải thể doanh nghiệp có thể nhận thấy rằng, so với phá sản, thủ tục giải thể được đặt ra một cách chủ động hơn, linh hoạt hơn đối với doanh nghiệp. Giữa các thủ tục này cũng có những ưu và nhược điểm khác nhau, cụ thể:
– Về ưu điểm:
+ Đối với phá sản: Khi thực hiện thủ tục này, doanh nghiệp có thể giảm được gánh nặng tài sản đối với chủ nợ khi tài sản của doanh nghiệp không còn bởi chủ nợ chỉ được nhận lại khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản còn lại của doanh nghiệp
+ Đối với giải thể: Doanh nghiệp luôn linh hoạt hơn về lý do, bởi ngoài những trường hợp bắt buộc doanh nghiệp có thể tự nguyện giải thể. Với thủ tục giải thể, doanh nghiệp cũng chủ động hơn khi chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu có thể tự mình thỏa thuận. Hơn nữa, khi giải thể hình ảnh của doanh nghiệp cũng như người quản lý cũng không bị ảnh hưởng về năng lực và uy tín. Sau khi giải thể, chủ sở hữu, các thành viên quản lý điều hành không bị hạn chế quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp.
– Về nhược điểm:
+ Đối với phá sản: Thủ tục này được đặt ra một cách bắt buộc, như một biện pháp để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ. Do đó khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục này sẽ dễ dàng đánh mất uy tín trên thương trường, cũng như làm xấu đi năng lực quản lý kinh doanh trong mắt các đối tác kinh doanh của người quản lý. Đặc biệt khi phá sản doanh nghiệp, chủ sở hữu, các thành viên của hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc doanh nghiệp sẽ không được thành lập, không được làm người quản lý, điều hành bất cứ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1 năm đến 3 năm kể từ khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản.
+ Đối với giải thể: Để giải thể, doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế đối với nhà nước cũng như hoàn trả các khoản nợ đối với các chủ nợ.
Trên đây là giải đáp của Công ty Luật LVN Group, Mọi vướng mắc, chưa rõ và cần hỗ trợ pháp lý vui lòng kết nối với bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900.0191. Rất mong được sự hợp tác pháp triển! Trân trọng./.
2. Quyết định của Tòa án trong thủ tục phá sản ?
Ngày 1/10/2015, M là người đại diện theo pháp luật của công ty Đ đã làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty Đ. Danh sách chủ nợ của công ty như sau:
– Nợ anh A 1 tỷ đồng (có bảo đảm bằng một ngôi nhà được định giá trong hợp đồng thế chấp là 1 tỉ đồng)
– Nợ anh B 1,9 tỷ đồng (có bảo đảm 1 tỷ đồng)
– Nợ chị C 3 tỷ đồng
– Nợ chị D 2 tỷ đồng
– Nợ bà E 5 tỷ đồng
– Nợ ông G 5 tỷ đồng Ngày 15/12/2015, thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản đã đồng ý bằng văn bản cho phép Công ty Đ:
(a) Thanh toán một khoản nợ 50 triệu đồng (nợ không có bảo đảm) từ tháng 4/2015 cho chị D.
(b) Thanh toán 1 tỷ đồng đồng cho anh A bằng phương thức phát mại tài sản. Khi phát mại tài sản ngôi nhà chỉ bán được 900 triệu đồng, thẩm phán đã đồng ý cho công ty trích thêm 100 triệu đồng tiền mặt để thanh toán nốt khoản nợ trên. Ngày 20/7/2015, Quản tài viên thông báo doanh nghiệp tư nhân TĐ (một trong số các con nợ đang nợ Công ty TNHH Đ) đang bị khủng hoảng trầm trọng về tài chính đã có hành vi tẩu tán tài sản. Trước tình hình đó thẩm phán đã ra quyết định kê biên tài sản của doanh nghiệp tư nhân TĐ cho đến khi thu hồi xong khoản nợ của Công ty TNHH Đ.
Cho tôi hỏi về tính hợp pháp trong các quyết định (a) và (b) và quyết định kê biên tài sản của thẩm phán được nêu trong tình huống trên?
Mong Luật sư của LVN Group giải đáp giúp tôi Chân thành cảm ơn !!!
Luật sư tư vấn Luật doanh nghiệp, gọi:1900.0191
Trả lời
Về thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp, Luật phá sản 2014 số 51/2014/QH13 quy định như sau:
“Điều 54. Thứ tự phân chia tài sản
1. Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:
a) Chi phí phá sản;
b) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
c) Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
d) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.
2. Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định tại khoản 1 Điều này mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:
a) Thành viên hợp tác xã, hợp tác xã thành viên;
b) Chủ doanh nghiệp tư nhân;
c) Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
d) Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ phần;
đ) Thành viên của Công ty hợp danh.
3. Nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định tại khoản 1 Điều này thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.”
Để xem xét tính hợp pháp về quyết định thanh toán tài sản cho các chủ nợ, trước tiên cần xác minh xem Thẩm phán phụ trách đã ra quyết định phá sản hay chưa. Nếu quyết định đã được ban hành thì thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp Đ phải được tuân thủ theo quy định trên, tức là ưu tiên cho chi phí phá sản, tiền lương, trợ cấp cho người lao động,.. Và nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán tất cả các khoản thì từng đối tượng theo cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo phần trăm tương ứng với số nợ.
Thêm vào đó, cần xác định tổng tài sản của công ty là bao nhiêu để làm căn cứ xác định mức thanh toán cho các chủ nợ, từ đó xác định xem quyết định của thẩm phán có hợp pháp hay không.
Về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm, Điều 53 Luật này quy định:
“Điều 53. Xử lý khoản nợ có bảo đảm
1. Sau khi mở thủ tục phá sản, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất Thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định tại khoản 3 Điều 41 của Luật này, Thẩm phán xem xét và xử lý cụ thể như sau:
a) Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ;
b) Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, Tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm. Việc xử lý khoản nợ có bảo đảm theo quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị thì Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề nghị Thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Việc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều này được thực hiện như sau:
a) Đối với khoản nợ có bảo đảm được xác lập trước khi Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được thanh toán bằng tài sản bảo đảm đó;
b) Trường hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; nếu giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.”
Theo đó thì việc khoản nợ của anh A được thẩm phán giải quyết bằng tài sản bảo đảm là hợp pháp. Tuy nhiên, quyết định bù 100 triệu đồng còn thiếu cần được xem xét lại tính hợp pháp, vì nó chỉ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp và số nợ 1 tỷ được thanh toán hoàn toàn nếu công ty Đ có đủ khả năng thanh toán tất cả các khoản nợ.
Về quyết định kê biên tài sản của doanh nghiệp tư nhân TĐ để tránh tẩu tán tài sản, ta có thể xét tính hợp pháp thông qua quy định sau của Luật Phá sản:
“Điều 70. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn theo quy định tại Điều 5 của Luật này, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động sau đây:
a) Cho bán hàng hóa dễ bị hư hỏng, hàng hóa sắp hết thời hạn sử dụng, hàng hóa không bán đúng thời điểm sẽ khó có khả năng tiêu thụ; cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
b) Kê biên, niêm phong tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại ngân hàng; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
d) Niêm phong kho, quỹ, thu giữ và quản lý sổ kế toán, tài liệu liên quan của doanh nghiệp, hợp tác xã;
đ) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán;
e) Cấm thay đổi hiện trạng đối với tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán;
g) Cấm hoặc buộc doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, tổ chức khác có liên quan thực hiện một số hành vi nhất định;
h) Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
i) Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của pháp luật.
2. Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có văn bản yêu cầu gửi đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Văn bản yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm;
b) Tên, địa chỉ của người có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tên, địa chỉ của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
d) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
đ) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án nhân dân chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.”
Theo đó, nếu có các căn cứ chứng minh cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc ra quyết định kê biên tài sản của doanh nghiệp tư nhân TĐ là đúng với quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của công ty Đ.
Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email Tư vấn pháp luật doanh nghiệp qua Email hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 1900.0191. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.
3. Sử dụng các tài khoản ngân hàng của Công ty sau phá sản có được không ?
Luật sư tư vấn luật doanh nghiệp trực tuyến, gọi:1900.0191
Trả lời:
Căn cứ Khoản 1, khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 quy định:
“1. Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
2. Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”
Như vậy, theo quy định của pháp luật, công ty của bạn phá sản khi công ty của bạn mất khả năng thanh toán (không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. Thông tin bạn cung cấp, bạn cần xác định thêm, các tài khoản mà công ty bạn lập có còn tài sản (cụ thể là tiền) hay không?, còn đủ khả năng thanh toán hay không?. Trong trường hợp không đủ khả năng thanh toán, và muốn tiến hành thủ tục phá sản, thì người đại diện theo pháp luật của công ty nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Tiếp theo, căn cứ Điều 65. Kiểm kê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán:
“1. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị Thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã vắng mặt thì người được Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chỉ định làm đại diện của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện công việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
3. Bảng kiểm kê tài sản đã được xác định giá trị phải gửi ngay cho Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản.
4. Trường hợp xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều này là không chính xác thì Tòa án nhân dân yêu cầu Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tổ chức kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Giá trị tài sản được xác định, định giá theo giá thị trường tại thời điểm kiểm kê.
5. Trường hợp đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã và những người khác không hợp tác về việc kiểm kê tài sản hoặc cố tình làm sai lệch việc kiểm kê tài sản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật”
Điều 71 Luật Phá sản 2014 quy định về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
“1. Trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản, người có quyền, nghĩa vụ nộp đơn theo quy định tại Điều 5 của Luật này, Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động sau đây:
a) Cho bán hàng hóa dễ bị hư hỏng, hàng hóa sắp hết thời hạn sử dụng, hàng hóa không bán đúng thời điểm sẽ khó có khả năng tiêu thụ; cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác;
b) Kê biên, niêm phong tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp, hợp tác xã tại ngân hàng; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ;
d) Niêm phong kho, quỹ, thu giữ và quản lý sổ kế toán, tài liệu liên quan của doanh nghiệp, hợp tác xã;
đ) Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán;
e) Cấm thay đổi hiện trạng đối với tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán;
g) Cấm hoặc buộc doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân, tổ chức khác có liên quan thực hiện một số hành vi nhất định;
h) Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
i) Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác theo quy định của pháp luật”
Theo quy định trên, sau khi Tòa án quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp sẽ tiến hành kiểm kê tài sản, trong một số trường hợp, tiến hành phong tỏa tài khoản ngân hàng. Như vậy, việc thông báo với các Ngân hàng mà công ty bạn mở tài khoản thì bạn bắt buộc phải thực hiện khi hai bên đã thỏa thuận.
Theo Điều 73 Luật Phá sản năm 2014 quy định về Nghĩa vụ của ngân hàng nơi doanh nghiệp hợp tác xã có tài khoản.
“Kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, nghiêm cấm ngân hàng mà doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản có tài khoản thực hiện việc thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan thi hành án dân sự”
Theo quy định trên, sau khi phá sản, bạn không được sử dụng các tài khoản tại các ngân hàng trên thanh toán, chi trả, chuyển khoản cho người khác.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc gửi qua Tư vấn pháp luật miễn phí qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
4. Đi tìm triết lý của luật phá sản ?
Đối chiếu với tình trạng nợ đọng phổ biến của doanh nghiệp Nhà nước và sự bùng nổ của hàng chục vạn doanh nghiệp dân doanh mỗi năm trong đó vô số doanh nghiệp làm ăn yếu kém hoặc vỡ nợ lặn lẽ rút lui dần khỏi thị trường, sự vắng bóng của một trật tự pháp luật dàn xếp quyền lợi của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ một cách văn minh đang đặt ra nhiều vấn đề cần có lời giải đáp.
>> Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191
Sự cần thiết của luật phá sản
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do kiểm soát và định đoạt mọi nguồn lực sản xuất, Nhà nước trở thành một xí nghiệp không lồ, các đơn vị kinh doanh không có động lực để cạnh tranh, sự tồn tại của chúng được duy trì theo ý chí của Nhà nước. Kinh tế bao cấp không cần tới luật phá sản. Dấu hiệu sụp đổ của mô hình này có thể nhận thấy khi các doanh nghiệp “vượt rào”, ngày càng giành lấy nhiều quyền tự chủ trong hoạch định và tổ chức kinh doanh. Cùng với sự gia nhập của đầu tư nước ngoài, sự nổi lòng tự do kinh doanh cho tư nhân, môi trường cạnh tranh tái xuất hiện và trở nên gay gắt nhanh chóng ngay trên thị trường nội địa, vai trò của Nhà nước với tư cách là một chủ đầu tư chịu trách nhiệm hữu hạn trong các doanh nghiệp Nhà nước mới dần dần hiện rõ. Khi tự do kinh doanh và cạnh tranh tái xuất hiện, nhu cầu điều tiết vỡ nợ các đơn vị kinh tế vốn thuộc quyền quản lý của Nhà nước mới trở nên cấp bách. Đáng lưu ý: nhu cầu điều chỉnh cấp bách bậc nhất của pháp luật phá sản trong các quốc gia chuyển đổi chính là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ hàng hoạt khi bước vào cạnh tranh với một tư thế thiếu năng động so với khu vực kinh tế tư nhân và tư bản nước ngoài. Năm 1986
Trung Quốc ban hành một đạo luật phá sản, chỉ áp dụng riêng cho khối doanh nghiệp Nhà nước. Tương tự như vậy, theo lời tư vấn phương Tây, ở Liên Xô cũ, Trung và Đông Âu, pháp luật phá sản trước hết được dùng như một công cụ tái cơ cấu, giải quyết sự vỡ nợ hàng loạt của các doanh nghiệp Nhà nước đang chuyển đổi sang các Công ty tư nhân. Công cụ này, như sẽ phân tích dưới đây, đã không được dùng phổ biến.
Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực từ ngày 01/7/1994. Chính phủ ban hành Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn thi hành luật này. Vào thời điểm soạn thảo Luật PSDN 1993 và cho đến tận ngày nay, doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng được đặc biệt quan tâm trong chính sách đổi mới. Bởi vậy, dường như Luật PSDN 1993 được thiết kế với trọng tâm đặt vào việc tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Triết lý cơ bản của Luật PSDN 1993 phản ánh tư tưởng và chính sách kinh tế được du nhập từ kinh nghiệm của những nền kinh tế chuyển đổi, chứ chưa phải từ những nền kinh tế thị trường lâu đời. Luật này áp dụng cho doanh nghiệp phá sản trong quá trình kinh doanh, không áp dụng cho cá nhân vỡ nợ dân sự, không tuyên bố xóa nợ, không phân chia tái tổ chức và thanh lý sản nghiệp như là hai sự lựa chọn cơ bản cho chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Vì nhiều lý do khác nhau, từ khi được ban hành Luật PSDN 1993 đã rất ít được sử dụng trong thực tế- một đạo luật về cơ bản đã không thành công so với mục tiêu ban đầu.
Vì sao ít được dùng
Phá sản doanh nghiệp Nhà nước:
Nếu xem xét như một công cụ nhằm mục đích tái tổ chức doanh nghiệp Nhà nước, Luật PSDN 1993 có những hạn chế của nó, như đã được minh chứng trong các nền kinh tế chuyển đổi. Có thể tóm lược ba nguyên nhân đã làm cho thủ tục phả sản doanh nghiệp Nhà nước ít xảy ra ở các nước này như sau:
1. Phá sản một doanh nghiệp lớn thưởng đe dọa đổ vỡ đây chuyền và thất nghiệp hàng loạt, uy hiếp trực tiếp tới ổn định xã hội. Vì lợi ích chính trị, các cơ quan chủ quan từ trung ương đến địa phương đều né tránh việc doanh nghiệp thuộc quyền quản lý của mình bị thụ lý và tuyên bố phá sản để che lấp dấu hiệu quản lý kinh tế yếu kém. Sự can thiệp của chính trị thường mạnh mẽ hơn cả pháp luật, bởi vậy khi giới hoạch định chính sách dè dặt với phá sản, thì công cụ này ít được.
2. Trong khi phương Tây dùng luật phá sản để tạo cơ hội cho chủ nợ can thiệp vào điều hành và tái cơ cấu doanh nghiệp mắc nợ, các chủ nợ trong những nền kinh tế chuyển đổi thường là Ngân hàng và các doanh nghiệp Nhà nước khác. Một khoản nợ tuy không dễ đòi, song vẫn thuộc sản nghiệp của chủ nợ, van hiện hữu trên bảng kê tài sản. Bởi vậy, chủ nợ có nhiều lý do để tránh yêu cầu tòa án thanh lý sản nghiệp của doanh nghiệp mắc nợ.
3. Do hệ thống tư pháp chưa được chuẩn bị cho chức năng tái cơ cấu doanh nghiệp, phần việc này được thực hiện có hiệu quả hơn bởi các cơ quan hành chính quản lý kinh tế, quyết định cấp vốn bổ sung, hoãn nợ, xoá nợ, phân tách, sáp nhập, cho thuê, khóan hoặc bán doanh nghiệp cho tư nhân suy cho cùng là những cuộc phẫu thuật giải quyết tình trạng nợ đọng hoặc vỡ nợ tiềm ẩn của doanh nghiệp Nhà nước. Khác với phương Tây, ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi những biện pháp này phần lớn không được thực hiện bởi toà án và các chủ nợ, mà bởi sự can thiệp của cơ quan hành chính.
Tóm lại, phá sản chỉ là một trong vô số phương cách tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Chữa trị căn bệnh mất khả năng thanh toán trong điều kiện hệ thống tư pháp, kế toán, kiểm toán và bổ trợ tư pháp chưa phát triển cần dựa vào những thiết chế và công cụ đã có sẵn trong các nền kinh tế chuyển đổi. Việc vay mượn luật phá sản từ phương Tây vào nước ta cũng cần được nhìn nhận trong một bối cảnh như vậy.
Phá sản doanh nghiệp dân doanh:
PGS. TS. Phạm Duy Nghĩa – Sinh năm 1965 tại Xuân Trường, Nam Định “… Một dân tộc biết suy tư, mơ ước và hành động để chế ngự đói nghèo và ganh đua với các dân tộc láng giềng là một dân tộc đang sống. Đóng cửa lại, tự cấp tự cung với đồng lúa và lệ làng, tự mãn với sự lạc điệu của riêng mình có lẽ là kẻ thù đáng sợ nhất của dân tộc chúng ta.” >> Xem trang tác giả: Phạm Duy Nghĩa |
Số vụ phá sản doanh nghiệp dân doanh đã được toà thụ lý cho đến nay cũng rất ít, cho thấy hiện tượng vỡ nợ đã được giải quyết bằng vô số phương cách tự phát, mà chưa theo mô hình phá sản do nhà làm luật thiết kế. Những phương cách đó chắc đã bắt nguồn tử thói quen, văn hóa kinh doanh và truyền thống đối xử của người Việt Nam đối với người vỡ nợ. Có thể nhận thấy một số nguyên nhân dưới đây đã dẫn tới hiện tượng này:
1. Vỡ nợ suy cho cùng cũng là một tranh chấp kinh doanh kéo dài, cách giải quyết tranh chấp của thương nhân Việt Nam xưa cũng như nay, phần lớn chưa dựa vào tòa án.
2. Liên kết doanh nghiệp dựa trên quan hệ tạo ra những dây kinh doanh có chức năng dàn xếp mâu thuẫn về lợi ích giữa các thành viên, nâng đỡ, ngăn ngừa vỡ nợ, hoặc nếu vỡ nợ xảy ra những dây kinh doanh này có những cách hành xử riêng, sự chuyển giao tài sản của người vỡ nợ cho các chủ nợ diễn ra trong nội hộ các dây kinh doanh này, ẩn dưới những hợp đồng gán nợ, sang tên, chuyển nhượng.
3. Do Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 không tuyên bố xoá nợ vĩnh viễn đối với chủ doanh nghiệp tư nhân, người, hộ kinh doanh (cá thể), các thành viên hợp danh trong các doanh nghiệp tư nhân vỡ nợ. Bởi vậy những người kinh doanh này không có lợi khi tự nguyện làm đơn yêu cầu toà tuyên bố phá sản.
4. Do tính chịu trách nhiệm hữu hạn được tiếp nhận trong các xã hội phương Đông không giống như phương Tây, tuyên bố phá sản không mang lại cho thành viên Công ty hoặc con nợ lợi ích của sự xóa nợ vĩnh viễn như ở phương Tây. Thêm nữa, vỡ nợ ẩn chứa nhiều dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, BLHS cung cấp vô số tội danh có thể vận dụng để trừng trị người vỡ nợ, người quản trị, điều hành các Công ty vỡ nợ. Bởi vậy những người thường này né tránh yêu cầu tuyên bố phá sản tự nguyện.
5. Do việc thi hành án đến nay vẫn kém hiệu quả, thứ tự ưu tiên thanh toán còn bất lợi cho chủ nợ dân doanh, bởi vậy phá sản bắt buộc doanh nghiệp mắc nợ chưa phải là sự lựa chọn tối ưu đối với nhiều chủ nợ.
Phá sản cá nhân:
Cá nhân nếu không tham gia kinh doanh mà vỡ nợ dân sự do vay mượn vì mục đích tiêu dùng, chưa là đối tượng điều chỉnh của pháp luật phá sản hiện hành. Khi nhu cầu tiêu dùng và tín dụng tiêu dùng gia tăng, có thể dự báo nhu cầu thiết lập một trật tự thanh toán nợ văn minh cho những người vỡ nợ dân sự, tránh tình trạng xiết nợ phần có vẻ tuỳ tiện đã bắt đầu diễn ra ở nước ta.
Nghiệp vụ của tòa án và hệ thống bổ trợ tư pháp:
Nếu nhìn nhận trình tự phá sản là một phương cách tái cơ cấu doanh nghiệp, hiệu quả của phương cách này phụ thuộc một cách đáng kể vào năng lực quản lý tài sản của tòa án, quản tài viên và hệ thung bổ trợ tư pháp. Trong khi hệ thống toà đặc tụng thụ lý việc phá sản đã hình thành từ hàng trăm năm nay ở phương Tây, hệ thống tư pháp nước ta mới đang tập làm quen với chức năng này. Từ triệu tập, chủ trì, điều hành các cuộc họp của chủ nợ, phê duyệt dự án tái cơ cấu, giám sát thực hiện, định giá sản nghiệp, kiểm kê công nợ và phát mại sản nghiệp của con nợ, cho đến thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tụ ưu tiên – toà án và hệ thống bổ trợ tư pháp Việt Nam đang đứng trước những thách thức nghiệp vụ mới lạ trong quản trị kinh doanh. Không chỉ là trừng phạt người vỡ nợ, phá sản trước hết là một cuộc phẫu thuật. Một khi thẩm phản, kiểm toán viên, quản trị viên, Luật sư của LVN Group.. chưa tích luỹ đủ kỹ năng tối thiểu cho những cuộc phẫu thuật đó, căn bệnh mất khả năng thanh toán tất yếu sẽ được chữa trị bằng những thể chế và phương cách khác.
Một số nguyên nhân khác:
Doanh nhân chỉ sử dụng trình tự phá sản, khi niềm tin vào tòa án gia tăng. Chừng nào cơ hội đòi nợ đọng từ doanh nghiệp mắc nợ thông qua thủ tục phá sản còn thấp, thì trình tự phá sản chưa thể hấp dẫn chủ nợ. Trong bối cảnh pháp luật kế toán và kiểm toán mới bắt đầu được xây dựng, kỷ luật khai báo sổ sách trung thực cua doanh nhân thấp, hệ thống đăng ký bất động sản sơ khai, các dòng tiền chưa tập trung qua hệ thống ngân hàng, sự hoán đổi nợ thành cổ phần trong doanh nghiệp mắc nợ chưa diễn ra thuận tiện… trình tự phá sản chưa thể nhanh chóng trở thành một công cụ hiệu quả bảo vệ lợi ích các chủ nợ.
Một số góp ý dự thảo luật phá sản (sửa đổi)
Sau hơn mười năm thực hiện không thành công, Luật PSDN 1993 đang được xem xét sửa đổi. Vượt ra khỏi những hạn chế mang tính kỹ thuật lập pháp, tính chưa đồng bộ của các đạo luật tố tụng và cách triển khai thực hiện đạo luật này, cần xem xét nguyên nhân của sự bất thành này trong khung cảnh của nhiều công cụ tái tổ chức doanh nghiệp thua lỗ. Những bình luận tổng quan ở trên cho phép dự báo vai trò của pháp luật phá sản trong tương lai sẽ không thay đổi đáng kể.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, Luật phá sản sẽ vẫn chỉ là một công cụ tái tổ chức yếu ớt Tòa án sẽ không thể mau chóng thay thế các cơ quan hành chính chủ quản trong việc phục hồi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dân doanh, chừng nào khái niệm trách nhiệm hữu hạn chưa trở thành phổ biến và cá nhân chủ nợ không được tuyên bố miễn trách, chừng đó các thiết chế đòi nợ tập thể có sẵn trong xã hội Việt Nam sẽ thay thế Luật phá sản.
Mất khả năng thanh toán là dấu hiệu đầu tiên cần được làm rõ bởi pháp luật phá sản. Chỉ khi lâm vào tình trạng này, các thiết chế cua tái tổ chức hoặc thanh lý tư pháp mới dược áp dụng. Cần làm rõ và lựa chọn một trong hai khái niệm: (1) mất khả năng thanh toán và (2) lâm vào tình trạng phá sản. Tình trạng thua lỗ trầm trọng, kéo dài, không mang tính chất kẹt tiền tức thời này đã phần nào được nhận diện qua các dấu hiệu quy định tại Điều 6, Nghị định số 189/CP [1994].
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh các dấu hiệu này chỉ để suy đoán doanh nghiệp đang mất khả năng thanh toán, chứ không có ý nghĩa doanh nghiệp đã phá sản, cần phải thu hồi, phát mại và thanh lý sản nghiệp. Vì lý do đó, nhiều nước đã đổi tên luật phá sản thành luật mất khả năng thanh toán. Thêm nữa, mất khả năng thanh toán thường dựa trên tiêu chí không thanh toán nợ đến hạn (dòng tiền) hoặc tổng nợ vượt quá tài sản có (cân đối tài sản). Muốn áp dụng rộng rãi luật mất khả năng thanh toán như là một biện pháp tái cơ cấu, phải mởrộng và đơn giản hóa đối tượng áp dụng, tránh dùng các tiêu chí khó định lượng. Cách quy định của Điều 3 Dự thảo, theo thiển ý của tôi, đã đi đúng xu hướng này.
Tên gọi của đạo luật, theo tôi nên giữ như cũ (Luật phá sản doanh nghiệp) hoặc đổi thành Luật mất khả năng thanh toán. Không nên đổi tên đạo luật thành “Luật phá sản và chia đối tượng áp dụng thành doanh nghiệp và hợp tác xã, bởi HTX, tuy có vài đặc điểm riêng do tính dân chủ, tương trợ và cộng đồng, song về bản chất vẫn là một loại hình doanh nghiệp, một pháp nhân có thể phá sản.
Luật PSDN 1993 áp dụng cho “doanh nghiệp”, không phân biệt phá sản cá nhân và phá sản Công ty, phá sản trong kinh doanh và phá sản của người tiêu dùng. Tuy nhiên đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản vẫn có thể bao gồm cá nhân, ví dụ chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp doanh trong các Công ty hợp danh. Đối với cá nhân vỡ nợ, cần nhấn mạnh tuyên bố miễn trách, xoá nợ, tạo cho họ cơ may lập nghiệp mới, một hệ quả đặc biệt mang tính nhân đạo của phá sản cá nhân so với phá sản Công ty. Đối với Công ty vỡ nợ, cần phân tách sản nghiệp Công ty và các thành viên, không nhầm lẫn giữa trách nhiệm của Công ty và các thành viên. Điều 94 của Dự thảo có thế nên được xem xét chỉnh sửa theo xu hướng này.
Toàn bộ sản nghiệp của con nợ sau khi có quyết định thụ lý vụ phá san của toà án hợp thành một khối, gọi là tài sản phá sản. Luật PSDN 1993 chưa dùng khái niệm này, mà chỉ dùng khái niệm “tài sản còn lại”, song chưa giải nghĩa rõ ràng. Vì sự thiếu rõ ràng đó, cần định nghĩa… tài sản phá sản và phân biệt khái niệm này với số tài sản qua phát mại mà thu hồi được để thanh toán cho các chủ nợ theo thứ tự và tỷ lệ ưu tiên.
Theo Điều 39 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Tòa án đang giải quyết vụ án kinh tế phải ra quyết định đình chỉ vụ án khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong khi đó, thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo Luật PSDN 1993 không đương nhiên bao gồm những tranh chấp phải sinh. Điều này gây thêm khó khăn cho Tòa án, bởi vậy thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cần đồng thời có quyền giải quyết các vụ án kinh tế liên quan.
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
5. Doanh nghiệp hoạt động thế nào khi mở thủ tục phá sản ?
>> Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp trực tuyến gọi số:1900.0191
Báo cáo năm 2008 của Tòa Kinh tế về phá sản doanh nghiệp cho thấy một tỷ lệ rất khả quan là 100% trong tổng số 136 vụ việc đã được giải quyết. Mấu chốt vấn đề nằm ở khái niệm “đã được giải quyết” không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục về phá sản, đã có thể chấm dứt mọi khoản nợ nần liên quan tới doanh nghiệp.
Có luật vẫn “treo”
Theo thuật ngữ chuyên môn trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp thì “đã giải quyết” có nghĩa là đã quyết định mở thủ tục phá sản, quyết định không mở thủ tục phá sản hoặc trả lại hồ sơ. Trong năm 2008, 131 trường hợp đã được tòa án quyết định mở thủ tục phá sản.
Tuy nhiên, theo bà Bùi Thị Hải, Phó tòa Kinh tế, quãng thời gian từ lúc doanh nghiệp nhận được quyết định mở thủ tục phá sản đến khi nhận được tuyên bố phá sản có thể là vài tháng, có thể là vài năm. “Đã có những doanh nghiệp chờ đợi đến 20 – 30 năm vẫn chưa “chết” được”, bà Bùi Thị Hải nói.
Như vậy, có thể thấy tỷ lệ các DN chính thức phá sản rất thấp. Nếu như nhìn vào con số thực hiện của TP.HCM trong quãng thời gian từ năm 2004 đến giữa năm 2008 mới có 4 DN nhận được tuyên bố phá sản trong số 27 trường hợp tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, thì 131 trường hợp của năm 2008 khó có thể có được sự đột biến nào.
Nguyên tắc bảo mật thông tin theo quy định khiến việc tiếp cận với các doanh nghiệp ngắc ngoải chờ chết này rất khó, song theo nhận định của bà Hải thì những trường hợp này đang làm đau đầu tất cả những người liên quan, từ bản thân doanh nghiệp đang chờ được phá sản, các chủ nợ, con nợ cho đến các cơ quan hành chính, tòa án… Nhiều hồ sơ thụ lý các vụ việc này đã được truyền tay qua nhiều người sau khi các cán bộ thụ lý đầu tiên đã nghỉ hưu theo chế độ.
Loay hoay và chống lấn
Lý do của những cái “chết treo” này, theo bà Hải, phần lớn do những ách tắc trong việc hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản năm 2004, trong thực tiễn tiến hành các thủ tục thanh lý tài sản. “Việc xác định chủ nợ, người mắc nợ đến quá trình thu hồi tài sản… chiếm rất nhiều thời gian, công sức. Chỉ đơn giản như hoạt động của tổ thanh lý tài sản rất khúc mắc do các thành viên đại diện của doanh nghiệp, chủ nợ, các cơ quan liên quan luôn kiêm nhiệm, rải rác ở các cơ quan, thậm chí địa phương khác nhau. Nhiều khi chỉ cần một đại diện bị thay đổi cũng đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động của cả tổ”, bà Hải phân tích.
Giả dụ như hoạt động của tổ này xuôi chèo mát mái thì việc thu hồi tài sản, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, đặc biệt là các tài sản gắn với quyền sử dụng đất, trong nhiều trường hợp là bế tắc. Vì UBND địa phương ra quyết định thu hồi quyền sử dụng đất, và tài sản được thanh lý chỉ còn là tài sản trên đất, tách rời khỏi quyền sử dụng đất. Điều này khiến cho chẳng còn ai muốn tham gia đấu giá các tài sản này. “Nếu như không hoàn thành được các thủ tục về thanh lý thì không thể đóng hồ sơ được”, bà Hải nói. Tuy nhiên, cũng khó có cách làm nào khác “an toàn” hơn bởi đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn cụ thể, thống nhất nào liên quan tới hoạt động này.
Cũng cần phải chia sẻ với các cơ quan thụ lý vụ việc vì mức chi phí về phá sản hiện đang áp dụng theo quy định từ năm 1997. Nếu như thời gian thanh lý tài sản kéo dài, tòa án buộc phải chịu thêm các chi phí về trông coi, bảo vệ tài sản chờ thanh lý. “Nhiều khi tòa án cũng không biết hạch toán vào đâu các chi phí này. Trong nhiều trường hợp, tài sản của doanh nghiệp nằm rải rác, thậm chí thuộc vùng sâu, vùng xa, xuống cấp nhanh do điều kiện bảo quản không tốt càng ảnh hưởng đến thời gian thanh lý tài sản”, bà Hải phân trần và cho biết là nhiều địa phương không có ngân sách cho các hoạt động này.
Theo quy định của Luật Phá sản hiện hành, nếu như các hoạt động thu hồi công nợ của doanh nghiệp chưa giải quyết xong, tài sản chưa thanh lý xong thì tòa án dù muốn cũng không thể ra tuyên bố phá sản được.
Và đây là một trong những lý do rất ít chuyên gia đưa ra những khuyến cáo doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản nên lựa chọn hình thức phá sản hay giải thể doanh nghiệp. Cái lợi của hình thức phá sản doanh nghiệp là sau khi tuyên bố phá sản, chủ doanh nghiệp coi như được xóa sạch mọi nợ nần và chỉ phải chịu những hạn chế về việc thành lập các công ty mới. Trong khi đó, nếu như tiến hành giải thể doanh nghiệp, các cá nhân thành lập doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải gánh các khoản nợ còn tồn tại. Tuy nhiên, nếu vướng phải cái chết treo do thủ tục kéo dài thì chủ doanh nghiệp có lẽ cũng chẳng mặn mà gì.
Nhắc lại thời điểm 10 năm thực hiện Luật phá sản năm 1993, chỉ có khoảng 46 doanh nghiệp chính thức được tuyên bố phá sản trong tổng số khoảng trên 150 hồ sơ được thụ lý. Vào thời điểm đó, nhiều chuyên gia kinh tế đã lên tiếng về tình trạng “doanh nghiệp chết không chôn được”. Cho tới thời điểm này, những cái “chết treo” vẫn đang chờ thêm các hướng dẫn về pháp lý để được đóng hồ sơ.
(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)