1. Giới thiệu

Nói đến tố tụng hình sự là nói đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các cơ quan tố tụng trong quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Yêu cầu đặt ra là phải tổ chức bộ máy, phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan tố tụng và giữa các cấp tố tụng một cách khoa học, bảo đảm sự chủ động, độc lập và kiểm soát lẫn nhau. Làm được điều đó sẽ giúp cho hoạt động tố tụng hình sự vận hành thông suốt, hiệu quả, đề cao trách nhiệm, tránh sự lạm quyền. Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp và tháo gỡ những vướng mắc qua thực tiễn thi hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

2. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong BLTTHS 2003

Theo Điều 33 BLTTHS 2003, Cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:

– Cơ quan điều tra;

– Viện kiểm sát;

– Tòa án.

Người tiến hành tố tụng gồm có:

– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên;

– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên;

– Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.

Việc quy định rõ chức danh (cơ quan và người tiến hành tố tụng) cũng như nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng chức danh này, nhất là đối với người tiến hành tố tụng trong Chương III Bộ luật TTHS năm 2003 là một bước tiến dài của pháp luật TTHS Việt Nam. Rành mạch hóa quyền và trách nhiệm các chủ thể trong TTHS vừa đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động của họ, đồng thời vừa tạo điều kiện cho việc giám sát, kiểm sát hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, như đã nêu, vẫn còn một số vấn đề liên quan đến chế định này cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, cụ thể là:

– Có cần thiết phân biệt cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, nhất là khi trong Bộ luật TTHS 2003 chỉ quy định cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu cơ quan, cấp phó và các chức danh tư pháp khác trong 3 loại cơ quan tiến hành tố tụng (sau Điều 33 của Chương III Bộ luật TTHS, không có điều luật nào khác quy định quyền hạn, trách nhiệm pháp lý cụ thể của cơ quan tiến hành tố tụng với tư cách là chủ thể tố tụng). Quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của các cơ quan này được thể hiện thông qua quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan (Viện trưởng, Chánh án, Thủ trưởng Cơ quan điều tra). Riêng Hội đồng xét xử là tổ chức đặc thù và Hội đồng xét cử có phải là “cơ quan” hay không, thì có quan điểm cho rằng hội đồng xét xử không đồng nghĩa với khái niệm “cơ quan Tòa án”, “cơ quan xét xử” được thể hiện trong Bộ luật TTHS và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng không phải là Thủ trưởng phiên tòa.

– Mặc dù thực tế quyền hạn, trách nhiệm của cấp trưởng trong bất cứ cơ quan, tổ chức nào cũng khác cấp phó (thường được coi là người giúp việc cho cấp Trưởng), nhưng việc quy định quyền hạn, trách nhiệm của cấp phó trong TTHS là thiết tưởng cần được cân nhắc lại. Quy định quyền hạn, trách nhiệm riêng biệt cho cấp phó, một mặt, vừa làm giảm trách nhiệm của cấp trưởng, mặt khác vừa thu hẹp phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của các chức danh tư pháp “nhân viên thuộc quyền” trong các cơ quan tiến hành tố tụng, vô hình chung biến các chức danh tư pháp này không khác mấy nhân viên trong cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, về mặt tổ chức, làm tăng số lượng cấp phó một cách đột biến ở các cơ quan tiến hành tố tụng.

– Vị trí vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự (xét xử) cũng là điều cần nghiên cứu. Việc xét xử tập thể và quyết định theo đa số (theo Luật TTHS Việt Nam) thực tế đã đánh đồng vai trò của Thẩm phán chuyên nghiệp với Hội thẩm nhân dân đa số là người hiểu biết hạn chế về pháp luật. Trong khi ở Việt Nam chưa áp dụng chế định xét xử bởỉ một Thẩm phán chuyên nghiệp đang gây áp lực quá tải ở nhiều Tòa án, thì việc tham gia của Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán như đã nêu vẫn dễ mang tính hình thức, trong nhiều trường hợp hầu như Thẩm phán quyết định mọi việc.

– Việc quy định thẩm quyền, trách nhiệm tố tụng cho Thư ký phiên tòa liệu có cần thiết ? Trái lại, Thủ trưởng và nhân viên các cơ quan thuộc Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ấy được giao nhiều quyền hạn và trách nhiệm tố tụng, kể cả quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành một số hoạt động điều tra theo Luật TTHS (Điều 111 – Bộ luật TTHS 2003), nhưng lại không được quy định là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ? Bên cạnh đó tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 111 – Bộ luật TTHS 2003 giao Viện kiểm sát “kiển sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này”, nhưng lại không quy định cụ thể là kiểm sát như thế nào và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng trong hoạt động điều tra của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân cũng là một điểm hạn chế khác của Bộ luật TTHS 2003.

3. Đối với cơ quan điều tra

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số điểm sau:

Thứ nhất, nhằm giảm số lượng vụ án do cơ quan tố tụng cấp trung ương thụ lý, để cấp này tập trung cho công tác chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn, kiểm tra cấp dưới, Bộ luật quy định Cơ quan điều tra cấp trung ương có thẩm quyền điều tra tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp Hên quan đến nhiều quốc gia nếu xét cần trực tiếp điều tra.

Thứ hai, quy định vụ án thuộc thẩm quyền của cấp huyện nhưng Cơ quan điều tra cấp tỉnh rút lên để điều tra phải đáp ứng điều kiện “xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra” thay cho quy định “xét thấy cần trực tiếp điều tra” hiện nay nhằm tránh sự tùy nghi, lạm dụng.

Thứ ba, quy định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyên trách điều tra tội phạm trong lĩnh vực tư pháp, theo đó, có thẩm quyền điều tra “tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp quy định tại Chương XXIII, Chương XXIV của Bộ luật hình sự mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp” (Điều 163).

Thứ tư, quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm chuyển vụ án nhằm bảo đảm việc điều tra đúng thẩm quyền (Điều 169).

Thứ năm, mở rộng diện cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đối với lực lượng Kiểm ngư nhằm đáp ứng yêu cầu điều tra tội phạm trên biển và góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo từ phương diện hoạt động tư pháp (Điều 35).

4. Đối với Viện kiểm sát

Bộ luật tố tụng hình sự 2015 bổ sung, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát phải:

Thứ nhất, thực hành quyền công tố từ khi Cơ quan điều tra giải quyết nguồn tin về tội phạm (Điều 159).

Thứ hai, quy định cụ thể trách nhiệm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra và trách nhiệm chuyển vụ án khi phát hiện việc điều tra không đúng thẩm quyền (các điều 145, 165, 169).

Thứ ba, quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét (các điều 189, 190, 191, 193, 201, 202, 204).

Thứ tư, quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải hỏi cung khi bị can kêu oan, bị can khiếu nại hoặc khi phát hiện hoạt động điều tra vi phạm pháp luật (Điều 183).

Thứ năm, để kiểm sát kịp thời, đầy đủ hoạt động điều tra, Bộ luật quy định: trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án, Cơ quan điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra (Điều 88).

5. Đối với Tòa án

So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật luật tố tụng hình sự năm 2015 có một số quy định khác đối với Tòa án như sau:

Thứ nhất, phân định hợp lý thẩm quyền giữa các cấp Tòa án nhằm tháo gỡ khó khăn cho cấp huyện; theo đó, bổ sung cho Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người (Điều 268).

Thứ hai, quy định đầy đủ thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nhằm khắc phục những vướng mắc của pháp luật hiện hành (Điều 272).

Thứ ba, quy định thẩm quyền của Tòa án trong việc xem xét, kết luận tính hợp pháp các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa; xem xét, kết luận tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do các chủ thể tố tụng thu thập, cung cấp (Điều 260).

Thứ tư, quy định cụ thể các trường hợp và cách thức Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252).

Thứ năm, quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm tranh tụng.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)