Ngoài ra, họ cũng có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho viện kiểm sát khi viện kiểm sát yêu cầu.

Việc cung cấp chứng cứ được tiến hành ngay từ khi khởi kiện. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu thấy chứng cứ chưa đủ cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự thì toà án yêu cầu đương sự cung cấp bổ sung. Để bảo đảm giải quyết vụ việc dân sự đúng hạn, pháp luật quy định thẩm phán có quyền ấn định cho đương sự một thời hạn không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự để họ cung cấp chứng cứ. Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp chứng cứ mà tòa án đã yêu cầu cung cấp nhưng đương sự không cung cấp được vì có lí do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lí do của việc chậm cung cấp chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ mà trước đó toà án không yêu cầu đương sự cung cấp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền cung cấp tại phiên toà sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự.

Khi cung cấp chứng cứ, tài liệu cho toà án thì đương sự phải sao gửi chứng cứ, tài liệu đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ; đối với chứng cứ, tài liệu không công khai hoặc chứng cứ, tài liệu không thể sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Trong trường họp giao nộp cho toà án các văn bản chửa đựng chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài thì đương sự phải giao nộp kèm theo bản dịch sang tiếng Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp (Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Các chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ phải thực hiện đầy đủ và đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình. Trong trường hợp chủ thể có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thì phải chịu trách nhiệm của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó của họ. về vấn đề này, khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định:

“Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do toà án yêu cầu mà không có lí do chính đáng thì toà án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và toà án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự”.

Để xác định trách nhiệm của các bên ttong việc giao nhận, bảo quản, sử dụng chỏng cứ, thủ tục giao nộp chứng cứ được pháp luật quy định cụ thể. Theo đó, khỉ giao nộp chứng cứ toà án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cử và thời gian nhận; chữ kí hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ kí của người nhận và dấu của toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.

Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự, tố tụng dân sự về chứng minh, chứng cứ cũng như các vấn đề khác liên quan. Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group