Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi:  1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý: 

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

2. Luật sư tư vấn:

Chung sống như vợ chồng trái pháp luật.

Chung sống như vợ chồng trái pháp luật là việc nam, nữ sống chung với nhau nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn; đồng thời nó vi phạm Điều kiện kết hôn đúng pháp luật.

Trường hợp thứ nhất: chung sống như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên dưới tuổi luật định.

Theo Khoản 4 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì: “ tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kêt hôn theo quy định của pháp luật.” Mặt khác khoản 2 Điều 4 quy định: “ cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo…” Do đó , việc chung sống như vợ chồng với những người dưới tuổi luật định là trái pháp luật.

Chẳng hạn như: Anh A dân tộc Tày 21 tuổi lấy chị B 14 tuổi theo tục bắt vợ của dân tộc, hai anh chị không đi đăng ký kết hôn vì cán bộ xã không đồng ý vì chị B chưa đủ tuổi nhưng già làng đồng ý, họ tổ chức đám cưới và về sống với nhau là vợ chồng.

Mặc dù hành vi chung sống như vợ chồng  của một trong hai bên hoặc cả hai bên dưới tuổi luật  định là tự nguyện nhưng cũng sẽ gây hậu quả xấu.

+ Theo khoa học, cần đạt một độ tuổi nhất định để tam sinh lý và sức khỏe phát triển toàn diện thì nam và nữ mới có thể kết hôn hay thực hiện tốt chức năng sinh sản.

+ Chung sống chung như vợ chồng khi chưa đủ tuổi sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe cả nam và nữ

+ Lúc này cả nam và nữ chưa trưởng thành toàn diện, khả năng xây tạo thu nhập thấp và chưa thể đảm bảo nhiều cho sự tồn tại của gia đình ( kinh tế, con cái..)

+ Chung sống như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi se làm cho chất lượng dân số thấp đi, tình trạng đói nghèo gia tăng…

Trường hợp thứ hai: Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ mà một bên hoặc cả hai bên đang có vợ, chồng ( khoản 1 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).

Trước hết ta cần hiểu thế nào là một người đang có vợ, có chồng? Ta cần khẳng định, khi một người đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì được coi là đang có vợ, có chồng. Bên cạnh đó, việc nam nữ chung sống như vợ chồng theo Nghị định 126/2014/NĐ-CP không quy định thêm điều kiện chứng minh việc đang có vợ chồng. Nên trường hợp sống chung giữa những người đang có vợ và chồng này là trái pháp luật.

Ví dụ: Anh A là kỹ sư cầu đường, khi đi đến huyện C anh thích chị B ( độc thân); mặc dù biết anh đã có vợ nhưng vì cũng thích anh A chị B và anh A sống với nhau như vợ chồng. Từ đó anh A không về với vợ mà ở huyện C sống với chị A) và có một cậu con trai sau khi sống chung.

Trường hợ thứ ba: chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.

Thứ nhất, Những người có dòng máu về trực hệ ( Khoản 12 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014) quy định” “ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu nội và chấu ngoại”. và Khoản 13 Điều 8: “ những người có họ hàng trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con cô con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba” .

Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo đảm bảo sự phát triển bình thường của thế hệ sau, đồng thời là sự phù hợp với đạo đức, truyền thống lễ nghĩa của người Việt Nam. Về mặt khoa học, khi hôn nhân cận huyết sẽ có nguy cơ mắc các bệnh cho trẻ sinh ra và lớn lên. Như vậy, từ trường hợp sống chung như vợ chống với những người cận huyết sẽ làm suy giảm giống nòi, dân số.

Thứ hai, với những trường hợp còn lại, mặc dù xét về mặt thực tế, những người này không hề có quan hệ huyết thông với nhau nhưng giữa họ tồn tại quan hệ cha mẹ- con và có mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng… ( cha mẹ nuôi- con nuôi, bố dượng- con vợ; mẹ kế- con chồng, bố chồng- con dâu, mẹ vợ- con rể…) Đây không phải quan hệ máu mủ ruột già nhưng luôn được xã hội đề cao và coi trọng, vì vậy việc pháp luậtt quy định để bảo vệ quan hệ này là hoàn toàn hợp lý. Vì họ đã từng nằm mối quan hệ thiêng liêng được nhà nước bảo vệ mà hiện giờ lại sống chung như vợ chồng thì sẽ trái với luân thường đạo lý, trái đạo đức xã hội.

Ví dụ: Ông A là bố của anh B có con dâu là C, hai vợ chồng B& C hay xảy ra xích mích và không có tiếng nói chung; Anh B bỏ vào Nam làm ăn; lúc đó ở nhà chị C và ông A ở nhà có nảy sinh tình cảm và sống với nhau như vợ chồng từ hồi anh B đi.

– Trường hợp người vi phạm là cán bộ, bộ đội; thời gian xác lập vi phạm là trước năm 1978 : Đây là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, chồng nhưng khi tập kết ra Bắc(1954) lại lấy vợ hoặc chồng khác. Như vậy, các trường hợp trên đã vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, đất nước bị chia cắt lâu dài, sự vi phạm này không phải do ảnh hưởng của chế độ hôn nhân phong kiến.Cho nênviệc nay cũng mang tính chất và có đường lối giải quyết vấn đề này cũng hoàn toàn khác .

*Ngoài ra, hiện nay với sự phát triển tân tiến của khoa học, trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học bên cạnh những mặt tích cực của nó còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ có thể dẫn đến hôn nhân cận huyết như phương pháp theo nguyên tăc “vô danh”. Có nghĩa là người nhận tinh trùng, noãn, phôi không biết danh tính, lý lịch của người cho, nhân. Một người có thể cho tinh trùng nhiều người sẽ dẫn đến tình trang nhiều đứa trẻ sinh ra từ cùng một người cha. Khi lớn lên vô tình chung sống như vợ chồng sẽ dẫn đến hôn nhân cận huyết. Hay trườn hợp con ngoài giá thú cũng vậy.

Chung sống như vợ chồng trái pháp luật là nhóm cần có chế tài xử lý bởi đây là những trường hợp nghiêm trọng, có ảnh hưởng không nhỏ tới an toàn sức khỏe, trật tự xã hội, phong tục và đạo đức của người Việt Nam. Ngoài ra pháp luật quy định chế tài cho các trường hợp vi phạm còn để bảo vệ lợi ích của người thứ ba trong mối quan hệ hợp pháp vì lợi ích của họ bị xâm phạm, họ phải chịu ảnh hưởng về mặt tinh thần, họ mất niềm tin vào hôn nhân, giá trị tốt đẹp của gia đình, sự công bằng của pháp luật. Đối với nhà nước, do những người này khi mất niềm tin vào pháp luật họ sẽ dần mất niềm tin vào nhà nước. Đồng thời các qía trị truyền thống như quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con, quan hệ huyết thống giữa những người có họ hàng với nhau sẽ bị xâm phạm.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Nguyễn Thị Thu Nga – Chuyên viên tư vấn pháp luật Phòng Hỗ trợ khách hàng – Công ty Luật LVN Group