Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi:  1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý: 

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bộ Luật Dân sự 2015

2. Luật sư tư vấn:

Sống chung như vợ chồng là hành vi của hai bên nam nữ tuy không phải là vợ chồng nhưng đã sống chung và coi nhau như vợ chồng. Họ liên kết với nhau trên cơ sở tự nguyện.

-Chủ thể: thường là chủ thế nam-nữ, ngoài ra hiện nay còn tình trạng sống chung như vợ chồng của nam- nam, nữ- nữ,người chuyển giới ở mọi nhiều lứa tuổi. với người chuyển giới nhưng chưa tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Mặc dù trên phương diện sinh học và pháp luật đều mang cùng một giới tính nhưng sống chung như vơ chồng với người cùng giới tính…

  • Về hành vi chung sống, ta chia thành hai nhóm là

+Tổ chức chung công khai, có thể tổ chức lễ cưới khoặc không, có thể có đời sống tình dục hoặc không, cùng tiến hành chăm sóc, yêu thương lẫn nhau.

          + Việc sống chung lén lút,không công khai, cũng có thể có tình dục hoặc không và vẫn coi nhau như vợ chồng mà chăm sóc nhau.

– Về cụm từ “coi nhau như vợ chồng” có thể hiểu ở nhiều kía cạnh khác nhau có thể họ đối xử với nhau như vợ chồng và có hành vi sống chung hay họ trao nhau những quyền và gánh vác những nghĩa vụ như nghĩa vụ mà pháp luật đã đăng ký kết hôn như việc tôn trong, yêu thương, vun đắp cuộc sống gia đình.quy định

-Hậu quả của hành vi. Đây là một yếu tố quan trọng giúp ta phân biệt được chung sống như vợ chồng với một vài hiện tượng khác như: cặp bồ, ngoại tình. Ta có thể thấy được một vài hậu quả trên thực tế như: có con chung,có tài sản chung…

Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật.

Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật là việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn về độ tuổi, ý chí tự nguyện và không thuộc các trường hợp cấm kết hôn theo quy định của pháp luật ( Đ iều 9,Điều 10 luật hôn nhân &gia đình 2014)

Trường hợp thứ nhất, Nam và nữ sống chung với nhau mặc dù có điều kiện đăng ký kết hôn nhưng lại không đăng ký kết hôn. Pháp luận hiện không công nhận quan hệ này nhưng đây cũng không thuộc các hành vi bị cấm. Nguyên nhân cho việc lựa chọn lối sống như vậy phụ vào nhiều yếu tố khác nhau như lối sống, cách nghĩ.

Chẳng hạn như A, B cùng là sinh viên năm hai đại học và yêu nhau. Sau 6 tháng yêu cả hai cùng dọn đồ về ở chung với suy nghĩ có nhiều khoảng thời gian cho nhau hơn. A, B cùng  sống với nhau ở khu nhà trọ như vợ chồng và chưa muốn đi đăng ký kết hôn vì nghĩ còn quá trẻ để bị ràng buộc.

Trường hợp thứ hai:  Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ khi một bên hoặc cả hai bên mất năng lực hành vi dân sự ( NLHVDS).

Tại Điều 10 Luật hôn nhân & gia đình 2014 có quy định cấm kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự nhưng không có một văn bản nào liên quan quy định việc chung sống như vợ chồng với trường hợp mât năng lực hành vi dân sự.

Theo quy định tại BLDS 2015 mất NLHVDS được hiểu là: “ khi một người do bị bênh tâm thần hay bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan Tòa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định…”  Như vậy khi người thân, người có quyền và lợi ích liên quan báo cáo lên Tòa án để tòa án xem xét và thế thì việc chung sống giữa người bình thường và người mất NLHV dân sự trên thực tế rất khó xác định. Ta không thể cho rằng người đó bị tâm thần hay măc bệnh khác không làm chủ được hành vi để xác định họ bị mất NLHVDS. Khi chưa có quyết định của tòa án thì người đó vẫn được cọi là có NLHVDS. Vì vậy việc chung sống với họ trong trường hợp này được coi là chung sống giữa nam và nữ như bình thường. Ngoài ra nếu như họ có thể không kiểm soát được hành vi của mình, bị tòa tuyên án mất NLHVDS nhưng về phương diện sinh học, họ vẫn là một con người phát triển và có các nhu cầu sinh lý bình thường và trường hợp này không được coi là trái pháp luật.

Chẳng hạn: Anh A và chị B yêu nhau nhưng chẳng may chị B bị bệnh và không kiểm soát được hành vi của mình, mọi người trong làng đều bảo chị bị tâm thần nhưng không ai báo cáo lên tòa án để xem xét tình trạng mất năng lực hành vi dân sự của chị; vì yyeeu chị B thực long anh A đã sang xin cưới, hai người lấy nhau trong sự đồng ý của hai bên gia đình.

Trường hợp thứ ba: chung sống như vợ chồng giữa người cùng giới tính. Về nguyên tắc pháp luật hiện hành không công nhận kết hôn đồng giới. Tuy nhiên, pháp luật không cấm và trên thực tế có nhiều trường hợp những người cùng giới tính sống chung với nhau đôi khi còn tổ chưc đám cưới công khai. Quy định như vậy của Luật mới là có bước tiến lớn vì: mặc dù luật 2000 đã cấm kết hôn đồng giới nhưng việc này vẫn xảy ra thường xuyên; nếu nhà nước bắt ép quá thì vấn đề nhạy cảm này sẽ tạo ra thứ nguy hiểm. Giải pháp phù hợp  nhất cho vấn đề này là nhà nước một mặt không thừa nhận hôn nhân đồng giới nhưng không cấm họ sống chung như vợ chồng.

Ví dụ: Hai người A,B cùng giới tính nam, hai người có tình cảm giữa hai người cùng giới. Họ yêu nhau và quyết định lấy nhau, họ tổ chức đám cưới rồi sống chung như những cặp vợ chồng khác tại quê nhà của B.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Nguyễn Thị Thu Nga – Chuyên viên tư vấn pháp luật Phòng Hỗ trợ khách hàng – Công ty Luật LVN Group