1. Pháp điển hóa

Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Pháp điển hóa là một dạng hoạt động làm luật, có thể đưa đến việc ban hành một văn bản pháp luật mới có tính chất tổng hợp (Ví dụ Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’.

Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích định nghĩa này cụ thể hơn: “Pháp điển hóa là việc xây dựng một bộ luật, đạo luật trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành, loại bỏ các quy định không phù hợp, bổ sung, dự liệu những quy định đáp ứng sự điều chỉnh pháp luật đối với những quan hệ xã hội đang phát triển. Pháp điển hóa là một dạng hoạt động làm luật, có thể đưa đến việc ban hành một văn bản pháp luật mới có tính chất tổng hợp”.

Một số quan điểm khác lại cho rằng pháp điển hóa là tập hợp các quy định của các văn bản lập pháp (luật, pháp lệnh, v.v.) và văn bản lập quy (nghị định, quyết định, v.v.) liên quan đêh một ngành, một lĩnh vực và sắp xếp thành một hệ thống thuận tiện cho việc tra cứu các quy định mà vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý và hiệu lực. Pháp điển hóa giúp cho việc tra cứu, tìm hiểu pháp luật được thuận tiện và góp phần phát hiện các mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu sót để đề nghị sửa đổi, bổ sung.

Như vậy, quan niệm về vâh để này vẫn còn nhiều khác biệt. Dưới đây là một số quan điểm phổ biên về công tác pháp điển hóa tại Việt Nam:

– Quan điểm pháp điển hóa truyền thống, coi hoạt động pháp điển hóa là hoạt động lập pháp do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thực hiện và sản phẩm pháp điển hóa là các bộ luật, luật hoàn chỉnh.

– Quan điểm coi pháp điển hóa là hoạt động tập hợp, rà soát, so sánh, đối chiếu, căn chỉnh, loại bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, đã hết hiệu lực thi hành để xuất bản các tổng tập quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực.

Cuốn Giản yếu Hán – Việt Từ điển của Đào Duy Anh đã định nghĩa “đem bao nhiêu pháp luật đơn hành hợp lại thành một bộ pháp luật chung gọi là pháp điển”. Với quan niệm này, ở Việt Nam, việc hệ thống hóa, pháp điển hóa pháp luật đã được coi như một truyền thống lâu đời, tồn tại cùng với lịch sử phát triển của dân tộc. Trong suốt thời kỳ lịch sử của các nhà nước phong kiến ở Việt Nam, kể từ thời kỳ nhà Lý (1009), đã xuất hiện một số công trình pháp điển hóa quan trọng như: bộ “Hình thư” được ban hành dưới thời nhà Lý, bộ “Hình luật thư” được ban hành dưới thời nhà Trần, bộ “Quốc triều hình luật” (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) ban hành dưới thời Lê và bộ “Hoàng Việt luật lệ” (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) của triều Nguyễn.

2. Pháp điển hóa thời nhà Lý

Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là bộ luật quốc gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý và có thể được coi là công trình pháp điển hóa đầu tiên của đất nước. Đây là bộ luật được soạn thảo dựa trên luật tục, tập quán của các thời trước và có sự tham khảo luật nhà Đường (Trung Quốc). Gọi là Hình thư nhưng bộ luật này không chỉ quy định về hình sự mà còn bao trùm các lĩnh vực khác. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp ở Việt Nam. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một bộ sưu tập luật lệ có tính pháp điển gồm ba quyển, ghi chép những nội dung còn lại trong sử cũ, quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và hệ thống quan lại, biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, sở hữu và mua bán đất đai, tài sản, thuế…

Có thể nói Hình thư, trực tiếp là chỉ dụ của Vua Lý Thái Tông sai trung thư san định luật lệ được xem là một sự kiện gắn với hoạt động pháp điển hóa. Nhà vua đã không ra một chỉ dụ chung chung thuần túy mà cùng với chủ trương “san định luật lệ”, Nhà vua còn chỉ rõ cách thức phải làm theo để đạt được mục đích. Cụ thể là:

Sơ đồ: Quy trình xây dựng bộ Hình thư theo chỉ dụ của Vua Lý Thái Tông

Đây có thể coi như một chỉ dụ hoàn chỉnh về nội dung và là một chỉ dụ đặc sắc về pháp điển hoá. Một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Có thể nói, cách đây 1.000 năm mà quan niệm của Lý Thái Tông và nói chung của triều đại nhà Lý về pháp điển hóa không khác gì nhiều lắm so với quan niệm ngày nay”. Cách xây dựng pháp luật đó ngay từ đầu đã mang đậm tính pháp điển, biết tiếp thu, kế thừa, tham chước xưa nay để trở thành cái riêng, cái khác của mình, mở đầu cho truyền thống pháp điển hóa pháp luật Việt Nam mang đậm tính nhân văn, nhân bản. Từng thuật ngữ được sử dụng và được đặt rất đúng chỗ với sự diễn đạt cô đọng, súc tích, chứng tỏ sự nhận thức về pháp điển hóa của Nhà vua, của triều đình nhà Lý đã sâu sắc, chuẩn xác, theo một logic chặt chẽ, mục tiêu rất rõ ràng. Việc san định, tham chiếu phải bảo đảm hữu dụng với thời thế, cho người xem dễ hiểu. Đây cũng chính là khâu cơ bản, quan trọng của bất kỳ một hoạt động pháp điển hóa nghiêm túc, thật sự, ở bất kỳ thời đại nào.

3. Pháp điển hóa thời nhà Trần

Nhà Trần (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: Trần triều) là một triều đại quân chủ phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225 sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Những năm đầu tiên, Trần Cảnh còn nhỏ tuổi, toàn bộ quyền hành của nhà Trần đều do một tôn thất vai chú của Trần Cảnh là Trần Thủ Độ nắm quyền, chính Trần Thủ Độ đã âm thầm ép Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho cháu mình.

Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ thời nhà Lý, năm 1341, Vua Trần Dụ Tông, đời vua thứ 7 của nhà Trần, đã giao cho Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu cùng soạn ra Hình luật thư để ban hành, về nội dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ Hình luật thư của thời Trần đã có những bổ sung và điều chỉnh nhất định. Đây cũng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của hoạt động pháp điển hóa của Việt Nam.

4. Pháp điển hóa thời nhà Lê

Tiếp nối tư tưởng của các nhà nước phong kiến trước đó, Vua Lê chủ trương xây dựng một văn bản pháp luật quy mô liên quan đến nhiều lĩnh vực. Văn bản đó phải có tính tổng quát, đối tượng điều chỉnh bao gồm nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội. Năm 1428, khi hạ lệnh cho các quan san định luật lệ để ban hành, Vua Lê Thái Tổ đã chỉ rõ: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn. Cho nên học tập đời xưa, đặt ra pháp luật là để dạy cho các tướng hiệu, quan lại, dưới đến dân chúng trăm họ biết thể nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh, chớ để phạm pháp”. Trên cơ sở các văn bản pháp luật các thời trước, Vua Lê Thánh Tông cho sưu tập các luật, lệ, bổ sung và hoàn chỉnh thành bộ Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức), gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển, về nội dung, ngoài những quy định chung, bộ luật quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, tô’ tụng… Đây là bộ luật có tính tổng hợp bao quát, được thực hiện trên cơ sở san định tất cả các văn bản được các đời vua trước ban hành, thu hút những quy định, điều luật, có khi cả từng chương, mục trong các văn bản trước đó vào luật. Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của hoạt động pháp điển hóa.

5. Pháp điển hóa thời nhà Nguyễn

Sau khi triều Lê suy yếu, nước ta rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ, cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên ngôi, Vua Gia Long đã sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Để tổ chức biên soạn và ban hành các bộ luật tổng hợp có nội dung phức tạp, Nhà vua yêu cầu những người biên soạn phải sưu tập các điều luật từ đời trước, tham khảo pháp luật Trung Quốc (cụ thể là đời nhà Thanh), trên cơ sở đó lựa chọn và bổ sung, thay đổi cho phù hợp. Hoàng Việt luật lệ đã được ra đời gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 bộ và được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội dung phong phú.

Như vậy, có thể nói “Hình thư”, “Quốc triều hình luật” và “Hoàng Việt luật lệ” tuy được ra đời vào những thời điểm, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nhưng đều mang đặc điểm chung là kết quả của một quá trình mang tính hệ thống hóa, pháp điển hóa. Việc biên soạn các bộ luật này đã được tiến hành rất công phu, theo những quy trình, quy tắc nhất định; các quy định được lựa chọn, phân loại, sắp xếp theo chương, mục chặt chẽ trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các quy định của các triều đại trước đó, có khi là cả các quy định của nước ngoài để ban hành thành một văn bản pháp luật thống nhất. “Các văn bản nói trên đều có dáng dấp của một sản phẩm pháp điển hóa ở mức độ cao, đó là các bộ luật như cách hiểu hiện nay”.

Qua quá trình xây dựng các bộ luật trên đây, cũng có thể nhận thấy chủ trương, chính sách, định hướng xây dựng và phát triển pháp luật chính là tiền đề quan trọng để bảo đảm cho quá trình pháp điển hóa được tiến hành thuận lợi, tiết kiệm và hiệu quả. Thiếu những chính sách pháp luật rõ ràng, đúng đắn thì việc pháp điển hóa sẽ gặp khó khăn, vướng mắc, quá trình pháp điển hóa sẽ kéo dài, chậm chạp, chất lượng và giá trị của các bộ luật làm ra sẽ có thê’ không đáp ứng yêu cầu đặt ra. Mặc dù, trong giai đoạn này chưa có khái niệm về pháp điển hóa, nhưng những người đứng đầu Nhà nước đã có tư tưởng rất tiến bộ, có chủ trương, chính sách, định hướng cho việc xây dựng các bộ luật. Các nhà lập pháp đã có kỹ thuật lập pháp gần với hệ thống hóa, pháp điển hóa ngày nay.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)