1. Pháp điển hóa giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980

Từ năm 1959 đến năm 1980, lịch sử cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn “đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh để hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.

Trong giai đoạn này, việc xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đã tăng lên đáng kể do có nhiều chủ thể được trao thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Hiến pháp năm 1959. Cụ thể: Quốc hội có quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm pháp luật và sửa đổi pháp luật (Điều 50); ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền ra pháp lệnh (Điều 53); Hội đồng Chính phủ ban hành nghị định, nghị quyết, chỉ thị (Điều 73); Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ban hành thông tư, chỉ thị (Điều 76).

a) Công tác hệ thống hóa

Mặc dù chưa đặt ra vấn đề pháp điển hóa để xây dựng các bộ luật có phạm vi điều chỉnh rộng, nhưng trong giai đoạn này công tác hệ thống hóa pháp luật đã được quan tâm, chú trọng. Cụ thể ngày 08-8-1968, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 128-TTg xác định công tác hệ thống hóa pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các bộ, ngành. Đây là văn bản đầu tiên xác định vai trò của công tác hệ thống hóa pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý kinh tế- xã hội.

Thực hiện Nghị định này, một ban chỉ đạo công tác hệ thống hóa pháp luật đã được thành lập do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng làm Trưởng Ban. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên mục tiêu của việc hệ thống hóa mới chỉ dừng lại ở mức độ tập hợp các văn bản của các ngành để xuất bản các tập luật lệ làm cơ sở cho công tác thực thi và tuyên truyền pháp luật, rút ra những kinh nghiệm cần thiết giúp cho công tác chỉ đạo và thực hiện việc hệ thống hóa pháp luật.

Trong giai đoạn này, một số tập hệ thống hóa pháp luật đã được ban hành như Tòa án nhân dân tối cao đã biên soạn Tập hệ thống hóa luật lệ về tố tụng dân sự (đã ban hành đến ngày 31-12-1974) gồm 127 văn bản (in tháng 5-1977); Hệ thống hóa luật lệ về hình sự tập n (1975-1978) gồm 74 văn bản (in tháng 11-1978); Hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự tập n (1975-1978) gồm 30 văn bản (in tháng 8-1979).

b) Tổng rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Sau ngày đất nước thống nhất, Quốc hội đã có nghị quyết ngày 02-7-1976 về việc thi hành pháp luật thống nhất trong cả nước. Việc tổng rà soát hệ thống văn bản pháp luật do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành trước đó nhằm áp dụng thống nhất trong cả nước cũng đã được thực hiện. Kết quả của quá trình này là việc ban hành Nghị quyết số 76/CP ngày 25-3-1977 của Hội đồng Chính phủ về vấn đề hướng dẫn thi hành và xây dựng pháp luật thống nhất trong cả nước, qua đó đã công bô’ bản danh sách gồm 420 văn bản còn hiệu lực thi hành.

Tổng rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chính là việc xem xét, đánh giá lại toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của tất cả các chủ thể có thẩm quyền ban hành trong một thời gian nhất định trên phạm vi toàn quốc, nhằm công bô’ các văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực, các văn bản đã hết hiệu lực, phát hiện, xử lý những văn bản, quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không phù hợp. Nghị quyết số 76/CP đã ghi nhận một cách hệ thống những văn bản pháp luật tạo nên nền tảng pháp lý của Nhà nước Việt Nam thống nhất.

2. Hiến pháp 1959

Hiến pháp 1959: Ngày 7/5/1954, chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ tạo tiền đề cho Hiệp định Giơ-ne-vơ (các bên ký kết ngày 20/7/1954), văn kiện quốc tế đầu tiên, tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

Tuy nhiên, ngay sau đó được sự ủng hộ trực tiếp của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã cự tuyệt thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.

Sự thay đổi của tình hình chính trị – xã hội nói trên đã làm cho Hiến pháp 1946 không có điều kiện áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặt khác, nhiều quy định của Hiến pháp 1946 cũng không còn phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta ở miền Bắc lúc bấy giờ. Vì vậy, việc yêu cầu sửa đổi Hiến pháp 1946 đã được đặt ra. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Chính phủ đã thành lập một Ban sửa đổi Hiến pháp với 28 thành viên, do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban. Ngày 01/4/1959, Bản dự thảo Hiến pháp mới đã được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý kiến. Đến ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thông qua bản Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1946; và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố bản Hiến pháp này – Hiến pháp năm 1959.

3. Hiến pháp năm 1980

Hiến pháp 1980: Ngày 30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đã bầu ra 492 vị đại biểu Quốc hội (khóa VI). Từ ngày 24/6 đến 03/7/1976, Quốc hội khóa VI tiến hành kỳ họp đầu tiên. Tại kỳ họp này, ngày 02/7/1976, Quốc hội đã quyết định đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh – Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội làm Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp mới.

Đến tháng 8/1979, bản Dự thảo Hiến pháp mới được đưa ra lấy ý kiến nhân dân cả nước. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với Hiến pháp năm 1980, lần đầu tiên vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiến định tại Điều 4, đây là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.

4. Vai trò của việc pháp điển hóa

Mục tiêu cuối cùng của hoạt động pháp điển hóa là làm cho hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện theo hướng rõ ràng, minh bạch, thân thiện hơn với người sử dụng, hạn chế ở mức thấp nhất những bất hợp lý, chồng chéo, thiếu nhất quán giữa các văn bản đơn lẻ và giúp cho việc tìm kiếm, tra cứu pháp luật được dễ dàng.

Kinh nghiệm cho thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật càng đơn giản, càng ít loại văn bản thì càng dễ chấp hành và áp dụng. Ở nước ta, mấy chục năm qua đã có nhiều hình thức văn bản đồng thời được dùng để ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ việc cụ thể. Việc quy định quá nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng làm cho hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tiềm ẩn nguy cơ bị chồng chéo, mâu thuẫn, thiêu sự phân công, phân nhiệm rõ ràng về thẩm quyền lập pháp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó, dẫn đến việc khó kiểm soát.

Việc chưa tiến hành hoạt động hệ thống hóa, pháp điển hóa một cách thường xuyên, toàn diện, đồng bộ, làm cho những người trực tiếp áp dụng pháp luật gặp rất nhiều khó khăn trong xác định chính xác vị trí, giá trị của một văn bản, một quy định pháp luật cũng như theo dõi quá trình hình thành, phát triển từng chế định pháp luật; các nhà hoạch định chính sách sẽ thiếu những cơ sở vững chắc để xem xét, đánh giá, xác định chính xác chương trình, kế hoạch lập pháp. Do vậy, nhu cầu rà soát, sắp xếp, chấn chỉnh lại các quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định để dễ tiếp cận, theo dõi và loại bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực trở thành một hoạt động cần thiết, thường xuyên. Đây chính là mục tiêu mà hoạt động pháp điển hóa hướng tới.

5. Lợi ích của việc pháp điển hóa

Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật theo quan điểm này mang lại những lợi ích to lớn như sau:

Thứ nhất, tạo lập được một hệ thống pháp luật công khai, minh bạch:

Về nguyên tắc, tất cả các quy phạm pháp luật hiện đang tồn tại trong tập pháp điển là những quy phạm hiện đang có hiệu lực. Các tập pháp điển này lại được xuất bản thành âh phẩm, bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, các tập pháp điển này được số hóa để đưa lên mạng internet. Do đó, tất cả các quy định của pháp luật đều được công khai, minh bạch để người dân cũng như các cơ quan, công chức nhà nước tiếp cận.

Thứ hai, giúp cho cơ quan nhà nước, công chức nhà nước và người dân dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu các quy định của pháp luật để thực hiện.

Với việc các quy phạm pháp luật có liên quan với nhau nằm phân tán, rải rác ở nhiều văn bản được đưa vào một tập pháp điển theo một trật tự logic sẽ góp phần tăng cường khả năng liên kết và tính gần gũi, dễ hiểu của các quy phạm pháp luật, giúp cho cơ quan, công chức nhà nước cũng như người dân dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu các quy định của pháp luật để thực hiện. Người dân, doanh nghiệp không còn phải lo lắng, sợ rằng mình chưa tìm hiểu được hết các quy phạm pháp luật có liên quan nằm rải rác trong nhiều văn bản; không còn phải “thấp thỏm” cho rằng, các quy phạm mà mình vận dụng có thể không còn hiệu lực.

Thứ ba, giúp loại bỏ được những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp, kịp thời đưa ra những quy định mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Với việc tập hợp toàn bộ quy phạm pháp luật trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi một lĩnh vực cụ thể vào trong một tập pháp điển sẽ dễ dàng phát hiện ra các quy phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp để sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ; đồng thời, cũng dễ dàng phát hiện ,ra các khiếm khuyết, các lỗ hổng trong hệ thống pháp luật để kịp thời xây dựng, ban hành các quy phạm pháp luật mới. Với cách làm này sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Thứ tư, bảo đảm tính linh hoạt, dễ cập nhật và nhanh chóng thích nghi, phù hợp với điều kiện hạ tầng xã hội đang biến chuyển liên tục như hiện nay.

Sau khi đã xây dựng thành công các tập pháp điển quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực cụ thể, mỗi khi có sự thay đổi đối với bất kỳ quy phạm pháp luật nào nằm trong tập pháp điển thì, việc cập nhật quy phạm đó vào tập pháp điển cũng rất thuận lợi, vì chỉ phải tác động riêng đến quy phạm có sự thay đổi đó. Trong điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước đang có nhiều biến chuyển, việc sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật là một việc làm tất yếu và diễn ra tương đối thường xuyên. Do đó, với việc các quy phạm pháp luật được pháp điển lại trong từng tập pháp điển sẽ giúp cho việc sửa đổi, bổ sung chỉ tập trung vào một số quy phạm pháp luật. Điều này làm cho hoạt động xây dựng pháp luật bớt đi các thủ tục rườm rà, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật cần thiết, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội; đồng thời, góp phần giảm tải công việc của các chủ thể có thẩm quyền xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ năm, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền tạo điều kiện để các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách xem xét, đánh giá về tính thống nhất, tính toàn diện, tính hệ thống của pháp luật Việt Nam; phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo, những kẽ hở của pháp luật, trên cơ sở đó, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các bộ luật đối với những lĩnh vực đã có tính ổn định cao. Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ cần thông qua những luật, pháp lệnh với nội dung đơn giản hơn nhiều vì chỉ nhằm ban hành hay sửa đổi, bô’ sung một hoặc một số quy định cụ thể hoặc có thể thông qua một luật sửa đổi các quy định của nhiều luật khác nhau. Do đó, tính Ổn định của hệ thống pháp luật sẽ ngày càng được nâng cao.

Thứ sáu, góp phần tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí cho hoạt động xây dựng pháp luật.

Ở nước ta hiện nay, số lượng văn bản quy phạm pháp luật là rất đồ sộ, trong đó đa số là các văn bản dưới luật, pháp lệnh. Vì nhiều lý do khác nhau mà việc rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật hiệu quả còn tháp. Do đó, việc tiến hành pháp điển hóa hệ thống quy phạm pháp luật theo quan điểm mới là hết sức cần thiết và đang là một nhu cầu của xã hội.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)