1. Pháp điển hóa giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ở Việt nam

Nếu như ở các giai đoạn trước đây, hệ thống pháp luật của nước ta còn chưa phát triển, các quan hệ xã hội được điều chỉnh chủ yếu bằng các văn bản dưới luật; hoạt động tập hợp, rà soát, hệ thống hóa pháp luật vẫn được tiến hành nhưng không dẫn đến việc xây dựng các đạo luật, thì ở giai đoạn này, tính toàn diện của hệ thống pháp luật đã được mở rộng đáng kể.

Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và thể chế hóa kịp thời chủ trương, chính sách của Đảng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số 300-CT ngày 20-10- 1987 và Chỉ thị số 166-CT ngày 20-6-1989 quy định trách nhiệm của các bộ, ngành trong công tác rà soát văn bản pháp luật. Đây có thể được coi là văn bản đề cập tương đối toàn diện về vấn đề hệ thống hóa. Chỉ thị số 300-CT ngày 20-10-1987 đã chỉ rõ: “các ngành, các cấp căn cứ vào Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, các Nghị quyết lần thứ 2 và thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành ngay việc soát xét lại quy định không còn phù hợp với tinh thần và nội dung của các nghị quyết đó”. Chỉ thị số 166-CT ngày 20-6-1989 đã xác định: “Rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là việc làm thường xuyên, gắn với hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật. Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm ủy ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đặc khu trực thuộc trung ương trong phạm vi thẩm quyền của mình có trách nhiệm chi đạo công tác rà soát văn bản pháp luật”.

Trong giai đoạn này, Quốc hội đã xây dựng và ban hành một số bộ luật lớn như: Bộ luật hình sự năm 1986, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật hàng hải năm 1990… Mặc dù việc xây dựng các Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự không có những khác biệt lớn về cấu trúc, cách sắp xếp so với tập hệ thống hóa của Tòa án nhân dân tối cao trong giai đoạn trước, nhưng đã bổ sung nhiều quy định trong các văn bản được ban hành trong 10 năm sau khi các tập hệ thống hóa đó ra đời. Đây chính là đặc trưng của hoạt động pháp điển hóa giai đoạn này.

Có thể nói, việc ban hành các bộ luật mang tính tổng kết, kế thừa và phát triển các quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực trong nhiều chục năm trước đó đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong hoạt động pháp điển hóa ở Việt Nam. Các bộ luật này là bộ pháp điển trong từng lĩnh vực được cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong việc ban hành luật thống qua, là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội trong từng lĩnh vực. Đây là dấu mốc quan trọng trong hoạt động pháp điển hóa của Nhà nước ta.

2. Bộ luật hình sự 1985

Bộ luật Hình sự là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục vụ công cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi mang tính phát triển. Sự phát triển này được thể hiện trước hết và chủ yếu trong những sửa đổi, bổ sung của BLHS. Chúng ta có thể chia quá trình phát triển này thành hai giai đoạn: Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có BLHS năm 1999 và giai đoạn từ khi có BLHS năm 1999 đến nay. Trong giai đoạn đầu, sự thay đổi của BLHS chỉ có tính cục bộ nhằm mục đích khắc phục tạm thời những hạn chế, những bất hợp lí của BLHS năm 1985. Ở giai đoạn thứ hai, sự ra đời BLHS năm 1999 đánh dấu sự thay đổi tương đối toàn diện của luật hình sự Việt Nam.

Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có BLHS năm 1999: Trong khoảng 15 năm tồn tại, BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung có trên 100 lượt điều luật được sửa đổi hoặc bổ sung. Với những sửa đổi, bổ sung này luật hình sự đã có sự phát triển đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới.

Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam.

Tuy nhiên trước những thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã hội, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật của của người dân ngày càng nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 22 tháng 7 năm 2014 Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi).

3. Bộ luật hàng hải năm 1990

Bộ luật hàng hải (BLHH) là Bộ luật kinh tế chuyên ngành đầu tiên của Việt Nam, được ban hành lần đầu vào năm 1990 và sửa đổi năm 2005, Bộ luật có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành hàng hải và kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hàng hải ở nước ta.

Tuy nhiên, sau thời gian triển khai thực hiện, cùng với sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, nhiều quy định mới được ban hành, các điều ước quốc tế được Việt Nam ký kết, gia nhập và thực tế hoạt động hàng hải có những thay đổi đòi hỏi BLHH Việt Nam phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định hiện hành cũng như thực tế hoạt động hàng hải, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế đất nước nói chung và ngành hàng hải nói riêng.

Để đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách này, được sự phân công của Quốc hội và Chính phủ, Bộ GTVT đã tổ chức nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung toàn diện BLHH Việt Nam.

4. Pháp điển hóa được tiến hành dưới những hình thức nào?

Từ thực tiễn hoạt động pháp điển hóa của một số nước trên đây, có thể rút ra một vài nhận xét như sau:

a) Về hình thức pháp điển hóa:

Có thể thâỳ sự khác biệt tương đối rõ cách thức tiến hành pháp điển hóa ở các nước khác nhau, mặc dù mục tiêu cuối cùng đểu nhằm làm cho hệ thống pháp luật được minh bạch, gọn gàng, việc tìm kiếm, tra cứu pháp luật được dễ dàng, thuận tiện.

Tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, mỗi khu vực hay vùng lãnh thổ mà việc pháp điển hóa ở từng nơi, từng giai đoạn được triển khai ở mức độ và theo những cách khác nhau. Các cách pháp điển hóa đang được áp dụng phổ biến là:

Pháp điển hóa nội dung (“substantive codification”)1 là việc xây dựng một bộ luật trên cơ sở tập hợp các quy định hiện hành, loại bỏ các quy định không phù hợp; bổ sung, dự liệu những quy định mới để đáp ứng sự điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội đang phát triển.

Cách pháp điển này gắn bó chặt chẽ với hoạt động lập pháp. Pháp điển hóa đồng thời là quá trình soạn thảo văn bản pháp luật mới trên cơ sở rà soát các quy phạm hiện hành, luật hóa một số quy định dưới luật hoặc có tính quy phạm được thừa nhận trong xã hội, dự liệu và xây dựng những quy định mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Đây là cách tiến hành pháp điển ở Pháp giai đoạn đầu Cách mạng tư sản và hiện vẫn đang được áp dụng ở Trung Quốc, Đức, Nga và một số nước đang tiến hành chuyển đổi ở châu Âu.

Pháp điển hóa hình thức (“formal codification”) là việc tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật thành các bộ pháp điển theo từng chủ đề với những sửa đổi, điều chỉnh cần thiết về mặt kỹ thuật nhằm làm cho các quy định này phù hợp với nhau, nhưng vẫn bảo đảm trật tự pháp lý của các quy định. Việc sửa đổi, điều chỉnh trong quá trình pháp điển hóa chỉ nhằm mục đích tạo nên sự hài hòa giữa các quy định, bảo đảm trật tự của bộ pháp điển mà không nhằm tạo ra những chính sách pháp luật mới. Với cách pháp điển này, các quy định pháp luật đang có hiệu lực được tôn trọng một cách tối đa. Đây là cách tiên hành pháp điển đang được áp dụng ở Cộng hòa Pháp và Hoa Kỳ (ở cấp độ chính quyền Liên bang).

5. Pháp điển hóa đem lại lợi ích gì?

– Tiện lợi trong việc tìm kiếm và áp dụng pháp luật: Người tra cứu, sử dụng khi tìm kiếm các quy định hiện hành có liên quan đêh một lĩnh vực cụ thể chỉ cần truy cập một văn bản pháp luật duy nhất, thay vì phải lần theo rất nhiều văn bản khác nhau cùng các lần sửa đổi, bổ sung của chúng; qua đó, làm giảm chi phí cho xã hội, góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật. Xuất phát từ quan điểm pháp luật phải là công cụ của mọi người, mọi chủ thể, trong đó có các cơ quan hành chính áp dụng luật, các cá nhân, tô’ chức trong xã hội thực hiện luật, các cơ quan tư pháp căn cứ vào pháp luật để xét xử…; do vậy, pháp điên hóa góp phần đơn giản hóa, minh bạch hóa hệ thống pháp luật, hạn chế tình trạng không hiểu và không biết về pháp luật; đốỉ nghịch lại với một hệ thống pháp luật rườm rà có thể bị lợi dụng để trục lợi. Nói cách khác, pháp điển hóa chính là phương thức cần thiết để góp phần “đưa pháp luật vào cuộc sôhg” một cách hiệu quả.

– Duy trì tính hệ thống của pháp luật: Pháp điển hóa giúp các cơ quan nhà nước quản lý một cách có hiệu quả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành; làm đơn giản hóa pháp luật, giảm đáng kể số lượng các văn bản quy phạm pháp luật; làm tăng tính liên kết của hệ thống pháp luật, hạn chế sự trừng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn giữa quy định pháp luật thuộc các văn bản khác nhau về cùng một lĩnh vực; từ đó, nâng cao chất lượng của công tác lập pháp.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)