Từ năm 1992, công tác pháp điển hóa đã được coi trọng ở cả góc độ lý luận và thực tiễn. Khái niệm pháp điển hóa đã được để cập trong từ điển bách khoa, từ điển pháp lý, giáo trình lý luận chung tại một số trường đại học… Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách tổng thể, sâu sắc, toàn diện về pháp điển hóa. Trong giai đoạn này, công tác tổng rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và tập hợp hóa đã được coi trọng. Đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây, nhất là từ khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, tiếp theo đó, là đợt tổng rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều đạo luật quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội theo tinh thần của Hiến pháp mới, công tác hệ thống hóa, pháp điển hóa cũng đã được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân đầu tư, nghiên cứu và có những sản phẩm cụ thể.

1. Tổng rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

Trong giai đoạn này, lần thứ hai Nhà nước ta đã tiến hành tổng rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Lần tổng rà soát này được thực hiện theo Quyết định số 355/TTg ngày 28-5-1997 của Thủ tướng Chính phủ sau khi Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thông qua vào năm 1996. Việc tổng rà soát được thực hiện đối với các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ ngày 02-7- 1976 đến ngày 31-12-1996. Đây là đợt rà soát nhằm công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực để áp dụng thống nhất trong cả nước từ trung ương đến địa phương. Đồng thời qua đó, nhìn nhận, phân tích, đánh giá những vật đề còn tồn tại trong việc ban hành văn bản và rút ra những kinh nghiệm để xây dựng một quy trình khoa học về rà soát, hệ thống hóa. Tuy nhiên, đợt tổng rà soát này cũng chưa đạt được mục đích cuối cùng.

Sau lần tổng rà soát này, Việt Nam đã tiến hành một số hoạt động rà soát, hệ thống hóa nhằm bảo đảm pháp luật Việt Nam phù hợp với các điều ước quốc tế để phục vụ việc đàm phán, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

2. Tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống cơ sở dữ liệu

Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, các cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật đã được chú trọng phát triển ở nước ta. Một số cơ quan nhà nước, công ty tư nhân cũng đã xây dựng cơ sở dữ liệu luật và tổng tập văn bản quy phạm pháp luật. Cho đến nay đã có những cơ sở dữ liệu về văn bản quy phạm pháp luật tương đối đầy đủ.

Cơ sở dữ liệu về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Văn phòng Quốc hội (Lawdata), của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Thư viện pháp luật, Luật Việt Nam là những cơ sở dữ liệu lun trữ toàn văn các văn bản pháp luật của Nhà nước, bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội; sắc lệnh, sắc luật, quyết định của Chủ tịch nước; nghị định, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, thông tư… của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và các cơ quan ngang bộ thuộc Chính phủ được ban hành từ năm 1945 trở lại đây, trong đó bao gồm cả những văn bản còn hiệu lực và đã hết hiệu lực. Cơ sở dữ liệu văn bản pháp quy của các bộ, ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn… cũng bao gồm các văn bản pháp luật từ Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư,… tương tự như cơ sở dữ liệu luật của Văn phòng Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp,…, nhưng lược bỏ bớt những văn bản không liên quan đến ngành, lĩnh vực.

Đặc điểm nổi bật của các cơ sở dữ liệu này là nhờ vào việc ứng dụng công nghệ thông tin, người sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn có thể nhận được các kết quả tìm kiếm toàn văn một văn bản pháp luật bất kỳ, trích các điều, khoản bất kỳ của một hoặc nhiều văn bản khác nhau; cho ra đồng thời kết quả danh sách nhiều văn bản có liên quan theo cùng chủ đề, cùng một cụm từ được sử dụng trong các văn bản pháp luật. Đây là một công cụ đắc lực giúp các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, kinh doanh và mọi công dân quan tâm tìm đến nội dung các văn bản pháp luật Việt Nam một cách nhanh chóng, chính xác; phẩn nào đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, tra cứu văn bản pháp luật; đồng thời góp phần minh bạch hóa hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, các cơ sở dữ liệu này mới chỉ là sự tập hợp một cách tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành (toàn bộ hoặc theo lĩnh vực) mà chưa có sự đầu tư nghiên cứu để phân loại, sắp xếp các văn bản đó một cách khoa học trên cơ sở đánh giá nội dung của từng văn bản theo lĩnh vực. Đặc biệt, chưa có sự rà soát cụ thể từng văn bản để phát hiện những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo hoặc đã lạc hậu, bị bãi bỏ.

3. Tập hợp văn bản quy phạm pháp luật trong tổng tập, tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật

Bên cạnh cơ sở dữ liệu điện tử, trong giai đoạn từ sau năm 2000 đến nay, nhiều bộ, ngành ở trung ương và các tổ chức, cá nhân cũng đã tiến hành xây dựng và cho ra đời nhiều công trình tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật theo lĩnh vực, phục vụ việc tra cứu các văn bản chuyên ngành một cách nhanh chóng, thuận tiện. Đặc biệt, nhiều bộ, ngành đã chú trọng xây dựng các cuốn tổng tập, tuyển tập, tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật theo lĩnh vực mà mình phụ trách nhằm hệ thống hóa một cách tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan phục vụ cho công tác tra cứu, áp dụng pháp luật của cán bộ, công chức trong ngành. Chẳng hạn như: “Các văn bản pháp luật vẽ’ hàng hải” của Cục Hàng hải Việt Nam năm 2000; “Tổng tập văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội” của Ban Công tác lập pháp thuộc ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2005; “Tuyển tập các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giao thông vận tải” của Bộ Giao thông vận tải năm 2010; “Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành” của Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2010; “Hệ thống văn bản pháp luật về dân quân tự vệ” của Cục Dân quân tự vệ thuộc Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng năm 2010…

4. Ví dụ về pháp điển hóa trong các tuyển tập, tổng tập

Tổng tập văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội

Được Ban công tác lập pháp của ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì xây dựng và xuất bản năm 2005, Bộ tổng tập này gồm 5 tập, trong đó hệ thống một cách đầy đủ, chính xác, trung thực các bản Hiến pháp, luật, bộ luật, pháp lệnh và nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật đã được Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội (Ban thường trực Quốc hội, Hội đồng Nhà nước) ban hành từ khóa I đến năm 2005 (Quốc hội khóa XI). Mỗi tập sách được thiết kế thành 4 phần: (1) luật của Quốc hội; (2) nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của Quốc hội; (3) pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội; (4) nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của ủy ban thường vụ Quốc hội (Ban thường trực Quốc hội, Hội đồng Nhà nước). Các văn bản trong tổng tập được sử dụng nguyên trạng, có đổi chiều với văn bản gốc để đảm bảo tính chính xác của văn bản và được sắp xếp theo một trật tự nhất định.

Tuyển tập các văn bản luật, pháp lệnh, nghị định và quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giao thông vận tải

Được Bộ Giao thông vận tải chủ trì xây dựng và xuất bản năm 2010, Tuyển tập này tập hợp một cách đầy đủ các văn bản luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ và quyết định của Thủ tướng Chính phủ hiện đang có hiệu lực về giao thông vận tải. Tuyêt tập được phân chia thành 6 mục tương ứng với các lĩnh vực giao thông vận tải, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không và lĩnh vực chung. Các văn bản trong mỗi lĩnh vực được sắp xếp theo hình thức văn bản (luật/bộ luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ), số và thời gian ban hành văn bản.

– Hệ thống văn bản pháp luật về dân quân tự vệ

Được Cục Dân quân tự vệ thuộc Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng xây dựng và ban hành năm 2010. Công trình này được thiết kế thành hai phần: Phần 1 gồm một số văn bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác dân quân tự vệ; Phần 2 hệ thống một cách đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về công tác dân quân tự vệ, bao gồm Luật dân quân tự vệ, các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thống tư, quyết định của Bộ Quốc phòng quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.

5. Kết luận

Có thể nhận thầy, trong giai đoạn từ năm 1992 đến nay, mặc dù chưa có quy định cụ thể cho hoạt động hệ thống hóa, nhưng trên thực tế, việc tập hợp, rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật cũng đã được tiên hành. Hoạt động này có thể do các cơ quan nhà nước thực hiện, nhưng cũng có thể do các tổ chức, cá nhân thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là cơ sở dữ liệu điện tử và tổng tập, tuyển tập phát hành dưới dạng văn bản. Điều đó chứng tỏ việc có một hệ thống pháp luật minh bạch, đồng bộ, thống nhất, đặc biệt là các quy phạm pháp luật được sắp xếp theo chủ đề, lĩnh vực để thuận tiện cho việc tra cứu, sử dụng trên thực tế đã trở thành một nhu cầu rất lớn hiện nay.

Việc xây dựng và duy trì các cơ sở dữ liệu cũng như các tổng tập, tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật đã đạt được thành công lớn trong việc minh bạch hóa, hệ thống hóa một cách đầy đủ, chính xác các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và rất hữu ích cho công tác nghiên cứu, tra cứu và áp dụng pháp luật hiện nay. Tuy nhiên, tất cả các cơ sở dữ liệu luật, tổng tập, tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc tập hợp một cách đơn giản các văn bản quy phạm pháp luật và sắp xếp chúng theo các tiêu chí nhất định mà không có sự nghiên cứu, so sánh, đối chiều về nội dung giữa các văn bản quy phạm pháp luật để chỉ ra những khiếm khuyết, mâu thuẫn, chồng chéo. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu, các bộ tổng tập, tuyển tập chủ yếu mang tính tự phát (do các cơ quan, tổ chức tự làm theo nhu cầu) và tập trung vào một số lĩnh vực “nóng”, được nhiều người quan tâm như: đất đai, xây dựng, thuê) hải quan, doanh nghiệp, đầu tư, giao thông vận tải…. Các văn bản quy phạm pháp luật có trong cơ sở dữ liệu, tuyển tập, tổng tập này chỉ mang tính tham khảo (kể cả trong trường hợp do cơ quan nhà nước thực hiện); việc xây dựng, ban hành các bộ tổng tập, tuyển tập không theo bất kỳ quy trình, thủ tục nào mà chủ yếu dựa vào ý chí của người “biên tập”.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)