1. Vì sao cần phải tiến hành pháp điển hóa thường xuyên?

Hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước là hoạt động mang tính thường xuyên, tạo ra hệ thống pháp luật của đất nước, làm cơ sở cho việc điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Kết quả của quá trình xây dựng pháp luật là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Và như một quy luật tất yếu, để hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đó trở nên minh bạch, dễ tiếp cận, dễ tìm hiểu thì việc pháp điển hóa cần phải được thực hiện một cách thường xuyên.

Pháp điển hóa là công việc có ý nghĩa lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và góp phần thống tín, tuyên truyền, phổ biến pháp luật, làm cho pháp luật trở nên dễ tra cứu, dễ áp dụng. Đây chính là điều kiện để Nhà nước tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật; giúp Nhân dân nắm được các quy định pháp luật, từ đó bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, phải nhận thức và coi pháp điển hóa là một quy luật khách quan, một công việc cần được tiến hành thường xuyên.

2. Vì sao cần pháp điển hóa một cách tổng thể, đồng bộ, thống nhất?

Theo kinh nghiệm của những nước đã áp dụng cách thức pháp điển hóa hình thức, để phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động pháp điển hóa, việc pháp điển phải được thực hiện một cách tổng thể, đối với toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật. Điều này đặt ra yêu cầu hoạt động pháp điển hóa phải có sự tham gia của rất nhiều các chủ thể khác nhau, thực hiện những công việc khác nhau trong quá trình pháp điển hóa. Trong khi đó, pháp điển hóa là hoạt động mang tính kỹ thuật chuyên sâu, đòi hỏi phải có nền tảng lý luận và thực tiễn chắc chắn.

Do vậy, hoạt động pháp điển hóa cần được tiến hành một cách thống nhất cả về cách thức cũng như các kỹ thuật liên quan. Điều này đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề thực tiễn cũng như lý luận về hoạt động pháp điển hóa để trên cơ sở đó xây dựng công nghệ pháp điển hóa thống nhất, phù hợp với điều kiện của nước ta, bảo đảm tính chính xác của các quy phạm được đưa vào bộ pháp điển.

3. Lợi ích của việc pháp điển hóa

– Tiện lợi trong việc tìm kiếm, tra cứu, thỏa mãn nhu cầu sử dụng và tìm hiểu các quy định của pháp luật: Công tác pháp điển là việc sắp xếp các quy phạm pháp luật vào các đề mục trong các chủ đề với phạm vi nội dung được xác định rõ ràng, ổn định, có tính hệ thống cao. Theo quy định của Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật thì Bộ pháp điển của Việt Nam được cấu trúc theo chủ đề, hiện nay, Bộ pháp điển có 45 chủ đề được đánh số thứ tự từ số 1 đến số 45, trong đó, mỗi chủ đề chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội nhất định được xác định theo lĩnh vực, ví dụ: Chủ đề số 1. An ninh quốc gia; chủ đề số 2. Bảo hiểm; chủ đề số 3. Bưu chính, viễn thông; chủ đề số 4. Bổ trợ tư pháp … Trong trường hợp cần thiết và phù hợp, Chính phủ quyết định bổ sung chủ đề mới theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Trong mỗi chủ đề có một hoặc nhiều đề mục, mỗi đề mục chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định. Cấu trúc của đề mục dựa theo bố cục của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội thuộc nội dung của đề mục. Ngày 06/6/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 843/QĐ-TTg phê duyệt danh mục các đề mục trong mỗi chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển theo các đề mục, theo đó, Bộ pháp điển chứa đựng 265 đề mục thuộc 45 chủ đề. Trong mỗi đề mục có thể có các phần, chương, mục, điều, khoản, điểm và nội dung các quy phạm pháp luật được đưa vào bởi các văn bản sử dụng để pháp điển.

Đối với các trường hợp mà quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến nhau nhưng lại được pháp điển ở hai vị trí cách xa nhau trong một đề mục hoặt thậm trí trong các đề mục, các chủ đề khác nhau thì được chỉ dẫn là “Điều này có nội dung liên quan đến điều …”. Với cấu trúc và tính chất của Bộ pháp điển như vậy có thể nói rằng góp phần tích cực, hiệu quả, giúp người dân, doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước dễ dàng, thuận tiện trong tìm kiếm, tra cứu các quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực.

– Bảo đảm tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật và góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật: Sau khi Chính phủ thông qua từng phần của Bộ pháp điển thì kết quả đó được đăng tải và duy trì thường xuyên, liên tục trên Cổng thông tin điện tử pháp điển và được sử dụng miễn phí. Đây là Cổng thông tin độc lập, đăng tải Bộ pháp điển, do Nhà nước giữ bản quyền và giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý, duy trì hoạt động. Như vậy, Bộ pháp điển chính thức của Nhà nước được xây dựng và duy trì dưới hình thức là một Bộ pháp điển điện tử, đây là một hình thức tiên tiến, tiết kiệm và rất phù hợp, bảo đảm tính linh hoạt của Bộ pháp điển trước những thay đổi thường xuyên của hệ thống pháp luật trong giai đoạn phát triển như hiện nay.

Các quy phạm pháp luật được pháp điển đã được rà soát, bảo đảm còn hiệu lực và đầy đủ, lại có chỉ dẫn cụ thể nên Bộ pháp điển có tác dụng rất lớn, có giá trị sử dụng tin cậy trong áp dụng và thực hiện pháp luật. Mặt khác, Bộ pháp điển được xây dựng theo quy định của Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật là Bộ pháp điển chính thức của Nhà nước, do Nhà nước giữ bản quyền. Qua đó, Bộ pháp điển sẽ góp phần nâng cao sự tin tưởng của người dân vào hệ thống pháp luật.

– Pháp điển góp phần nâng cao tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống quy phạm pháp luật: Các quy phạm pháp luật từ cấp Thông tư trở lên đang còn hiệu lực (trừ Hiến pháp và các quy định thuộc về bí mật nhà nước) được thực hiện pháp điển theo một quy trình nhất định, bảo đảm các quy phạm pháp luật đang có hiệu lực phải được tập hợp đầy đủ, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, phù hợp, từ đó phát hiện những quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp để có các biện pháp xử lý kịp thời. Như vậy, có thể nói rằng, kết quả pháp điển các đề mục, các chủ đề trong Bộ pháp điển giúp cơ quan lập pháp, cơ quan soạn thảo có cái nhìn tổng thể, toàn diện về thực trạng hệ thống pháp luật hiện nay, từ đó các điều luật được xây dựng sẽ phù hợp và thống nhất với các quy định trong hệ thống pháp luật, hạn chế được trường hợp các văn bản hướng dẫn thi hành trái với quy định của cấp trên, mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định của pháp luật khác.

4. Tình hình xây dựng Bộ pháp điển của Việt Nam

Ngày 16/4/2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho công tác xây dựng Bộ pháp điển của Nhà nước. Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật về cơ bản đã đầy đủ, bảo đảm cho công tác xây dựng Bộ pháp điển. Theo Đề án xây dựng Bộ pháp điển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ), Bộ Pháp điển có lộ trình xây dựng trong 10 năm từ 2014 đến 2023 và chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn 1 (2014 – 2017) hoàn thành 22 đề mục; Giai đoạn 2 (2018 – 2020) hoàn thành 144 đề mục và Giai đoạn 3 (2021 – 2023) hoàn thành 99 đề mục.
Trên tinh thần thực hiện pháp điển sớm các đề mục có hệ thống văn bản thuộc nội dung đề mục có tính ổn định, liên quan đến quyền lợi của cá nhân doanh nghiệp, một số bộ, ngành đã đưa vào Kế hoạch chung thực hiện pháp điển và hoàn thành trước thời hạn (trước năm 2018) với 96/243 đề mục, nâng tổng số đề mục phải hoàn thành trước năm 2018 lên 118 đề mục. Thực tiễn hiện nay, mới chỉ có 20 đề mục đã pháp điển và thẩm định xong, 38 đề mục đang được triển khai thực hiện, 60 đề mục mới chỉ ở bước đầu là rà soát, xác định văn bản sử dụng để pháp điển vào đề mục. Do đó, có thể thấy khối lượng công việc trong năm 2016 và 2017 là rất lớn, các bộ, ngành phải tập trung triển khai và hoàn thiện 98 đề mục để bảo đảm tiến độ theo kế hoạch đã đề ra cũng như lộ trình theo Đề án xây dựng Bộ pháp điển. Như vậy, công tác xây dựng Bộ pháp điển vẫn còn một chặng đường dài với khối lượng công việc tương đối lớn nhưng với sự quyết tâm của các bộ, ngành và tiến độ thực hiện pháp điển như hiện nay thì Bộ pháp điển có thể sẽ được hoàn thành trước thời hạn.

5. Tại Việt Nam có bộ pháp điển nào chưa?

Quan điểm pháp điển hóa trên cơ sở rà soát, tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật thành bộ pháp điển theo chủ đề chính là quan điểm pháp điển hóa hiện đại, theo cách thức pháp điển hóa hình thức phổ biến ở các nước trên thế giới.

Trên cơ sở quy định này, trong thời gian vừa qua một số nhóm chuyên gia đã tiến hành pháp điển hóa thử nghiệm Bộ pháp điển về Luật tổ chức Quốc hội (trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm pháp điển của nước Pháp) và Bộ pháp điển về sở hữu trí tuệ (trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm pháp điển hóa của Hoa Kỳ). Tuy nhiên, do là hoạt động thử nghiệm nên Bộ pháp điển này chỉ có giá trị tham khảo. Mặc dù chỉ có giá trị tham khảo, nhưng do được nghiên cứu, chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, với cách làm bài bản, hai bộ pháp điển có ý nghĩa rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển trong hoạt động pháp điển hóa của nước ta.

Bộ pháp điển về Luật tổ chức Quốc hội được xây dựng và hoàn thành vào năm 2009. Đây là sản phẩm hợp tác giữa Văn phòng Quốc hội Việt Nam và Dự án hỗ trợ thể chế cho Việt Nam (ISP).

Bộ pháp điển về quyền sở hữu trí tuệ là sản phẩm hợp tác giữa Thường trực ủy ban pháp luật với Bộ Khoa học và Công nghệ và một số cơ quan, tổ chức có liên quan, bao gồm toàn bộ các quy định về sở hữu trí tuệ của Việt Nam tính đêh ngày 31-7-2010. Bộ pháp điển được thực hiện theo phương pháp pháp điển hóa hình thức, theo kỹ thuật pháp điển hiện đại trên cơ sở kinh nghiệm của Hoa Kỳ, có tính đến đặc thù của hệ thống pháp luật Việt Nam. Cụ thể, các quy phạm pháp luật về lĩnh vực sở hữu trí tuệ đang được áp dụng sẽ được tập hợp, sắp xếp theo một trật tự nhát định với câu trúc hợp lý.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)