1. Phòng vệ chính đáng là gì ?

“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của tỏ chức mà chổng trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm” (Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).

Chế định phòng vệ chính đáng được xây dựng nhằm khuyến khích người dân chống hành vi xâm phạm khách thể bảo vệ của luật hình sự, ngăn chặn hoặc hạn chế thiệt hại mà hành vi đó có thể gây ra.

Luật hình sự Việt Nam khẳng định hành động trong phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm vì hành động này phù hợp với lợi ích của xã hội, hỗ trợ Nhà nước ttong việc duy trì ưật tự xã hội, chống lại hành vi xâm phạm các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Phòng vệ chính đáng là quyền của mỗi cá nhân nhưng không phải là nghĩa vụ pháp lí. Họ có thể không sử dụng quyền đó vì những lí do khác nhau nhưng về mặt đạo đức, đòi hỏi mọi người phải có trách nhiệm đối với lợi ích chung của xã hội, chống trả hành vi xâm phạm các lợi ích đó. Đối với những người có chức vụ, có ttách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước hoặc của nhân dân thì đây là nghĩa vụ pháp lí.

Với chế định phòng vệ chính đáng, Nhà nước cho phép mỗi cá nhân được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hay lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức khi có thể bảo vệ được nhưng phòng vệ chính đáng không có nghĩa là tự ý xử lí, vì quyền xử lí các hành vi trái pháp luật thuộc về Nhà nước. Do vậy, phòng vệ chính đáng cũng có giới hạn theo quy định của luật. Chỉ coi là phòng vệ chính đáng khi thỏa mãn các điều kiện thể hiện sự phòng vệ là “chính đấng” phù hợp với lợi ích của xã hội.

2. Lịch sử hình thành chế định phòng vệ chính đáng

Phòng vệ chính đáng là một tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Vì vậy, hành vi gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng được coi là hợp pháp và không bị coi là tội phạm. Trong luật hình sự Việt Nam, vấn đề này được quy định thành một chế định riêng kể từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự những năm đầu). Trước đó, thực tiễn xét xử cũng đã thừa nhận phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm và cũng có một số văn bản quy định về các trường hợp cụ thể của phòng vệ chính đáng như Pháp lệnh quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cảnh sát nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1962 (quy định những trường hợp cảnh sát nhân dân được sử dụng vũ khí).

Chế định phòng vệ chính đáng một mặt là cơ sở pháp lí khuyến khích công dân chủ động tham gia Š đấu tranh chống các hành vi vi phạm cũng như ` hành vi phạm tội, mặt khác cũng định hướng cho công dân thực hiện quyền của mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép, tránh tuỳ tiện, lạm dụng. Theo Bộ luật hình sự, phòng vệ chính đáng đòi hỏi các dấu hiệu sau:

1) Phải có cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ;

2) Phải thực hiện đúng nội dung của quyền phòng vệ:

3) Phải thực hiện quyền phòng vệ trong phạm vi cho phép.

Cơ sở làm phát sinh quyển phòng vệ: quyền phòng vệ chỉ phát sinh khi có sự tấn công của con người, gây nguy hiểm đáng kể, trái pháp luật đang hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc. Trường hợp chưa có sự tấn công và cũng chưa có sự đe dọa sự tấn công sẽ xảy ra ngay tức khắc mà đã phòng vệ bị coi là phòng vệ quá sớm. Người có hành vi phòng vệ quá sớm phải chịu trách nhiệm hình sự khi đủ các điều kiên khác. Trái lại, trường hợp phòng vệ khi sự tấn công đã thực sự chấm dứt bị coi là phòng vệ quá muộn. Người có hành vi phòng vệ quá muộn phải chịu trách nhiệm hình sự khi đủ các điều kiện khác.

Nội dung của quyền phòng vệ: khi có quyền phòng vệ, chủ thể chỉ được phép chống trả gây thiệt hại cho chính người tấn công.

Phạm vi của quyền phòng vệ: người có quyền phòng vệ chỉ được phép chống trả ở mức cần thiết để ngăn chặn sự tấn công. Để đánh giá sự chống trả là cần thiết, phù hợp với hành vi tấn công cần dựa vào những căn cứ sau:

1) Tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm hại;

2) Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra;

3) Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công;

4) Khả năng chống trả của người phòng vệ…

Trường hợp hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công thì bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và người có hành vi vượt quá này phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, mức độ trách nhiệm được giảm nhẹ.

3. Các điều kiện của Phòng vệ chính đáng

Xét về bản chất, hành vi phòng vệ chính đáng là hành động nhằm ngăn chặn, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật, hạn chế những thiệt hại gây ra, lập lại sự quân bình xã hội. Tuy nhiên, phòng vệ chính đáng không có nghĩa là tự ý xử lý trong mọi trường hợp mà cũng có những giới hạn nhất định, một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các điều kiện chứng minh sự phòng vệ là cần thiết và phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.

Để tránh những trường hợp lợi dụng việc phòng vệ chính đáng nhằm mục đích thực hiện hành vi phạm tội, luật Hình sự quy định chặt chẽ các điều kiện của chế định phòng vệ chính đáng. Về cơ sở phát sinh quyền Phòng vệ chính đáng: hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể; hành vi xâm phạm phải là hành vi đang diễn ra, xâm hại đến các lợi ích cần bảo vệ. Xét về nội dung Phòng vệ chính đáng có các điều kiện sau:

3.1. Hành vi Phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức

Đây là điều kiện rất quan trọng, đòi hỏi người phòng vệ phải có mục đích nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chứctrước sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của hành vi xâm hại. Hành vi của một người gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại nhưng không phải vì mục đích nhằm bảo vệ những lợi ích hợp pháp mà vì những mục đích khác (trả thù) thì trong trường hợp này, hành vi gây thiệt hại không được coi là phòng vệ chính đáng.

3.2. Hành vi phòng vệ phải nhằm vào chính người tấn công, người đang có hành vi nguy hiểm cho các quan hệ xã hội được bảo vệ

Luật Hình sự Việt Nam chỉ xem hành vi chống trả nhằm vào người đang có hành vi tấn công để ngăn chặn hành vi này mới xem là hợp pháp. Thực tiễn có rất nhiều hành vi xâm hại đến người thân của người đang có hành vi tấn công để buộc người này chấm dứt việc thực hiện hành vi trái pháp luật, pháp luật không xem những hành vi như vậy là phòng vệ mà họ phải chịu trách nhiệm hình sự.

Sự chống trả của người phòng vệ phải nhằm vào chính kẻ tấn công, vào chính người đang gây nguy hiểm vì có như vậy mới đạt được mục đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn một cách tích cực sự tấn công, hạn chế sự thiệt hại do tấn công đe dọa gây ra. Nếu một người, để tránh một thiệt hại gây ra cho mình bằng cách gây thiệt hại cho người khác thì không thể coi là phòng vệ chính đáng được vì trong phòng vệ chính đáng sự thiệt hại phải là gây ra cho người có hành vi xâm hại để ngăn chặn hành vi xâm hại đó.

3.3. Hành vi phòng vệ phải “cần thiết”

“Cần thiết” không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại đe doạ gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. Nó cũng không có nghĩa là bên xâm hại như thế nào thì người phòng vệ phải gây thiệt hại như thế đấy. Sự chống trả trong phòng vệ chính đáng là nhằm vào hành vi tấn công, nhằm chấm dứt hành vi này để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Việc xem xét một hành vi chống trả là cần thiết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm với hành vi phòng vệ. Lợi ích bị xâm phạm cần được bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải mạnh mẽ bấy nhiêu.

Ví dụ: Một cảnh vệ nổ súng bắn chết một người đã đột nhập vào khu vực được bảo vệ nghiêm ngặt theo một chế độ đặc biệt, thì hành vi của người bảo vệ được coi là cần thiết và là phòng vệ chính đáng. Nhưng cũng hành vi bắn chết người này lại trong trường hợp một học sinh vào trường hái trộm nhãn và bị bảo vệ bắn chết thì lại không được coi là cần thiết. Vì vậy, khi xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể trong mối tương quan giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả.

4. Một số vấn đề về Phòng vệ chính đáng

4.1. Về chế định phòng vệ trước (Phòng vệ từ xa)

Hiện nay, pháp luật Việt Nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công như: đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng người gian…Nếu việc phòng vệ trước này lại gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp tội phạm thông thường (Giết người hoặc Cố ý gây thương tích). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng người phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ đáng kể.

4.2. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS

Điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 có quy định Phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hiện nay có ý kiến cho rằng việc quy định tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS là không cần thiết bởi vì người phạm tội đã bị kết án về một trong các tội liên quan đến hành vi phòng vệ được quy định trong BLHS là tình tiết định tội, định khung thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51.

Theo chúng tôi thì quy định phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ vẫn cần thiết, bởi vì thực tiễn xét xử có một số vụ án Giết người hoặc Cố ý gây thương tích thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chống trả với hành vi phòng vệ chưa thuộc trường hợp quy định tại Điều 126 (Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) hoặc Điều 136 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) mà thuộc trường hợp tội phạm Giết người quy định tại Điều 123 hoặc Cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 BLHS thì người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là phải xác định trường hợp nào là dấu hiệu định tội quy định tại Điều 126 và Điều 136 BLHS, còn trường hợp nào chỉ là tình tiết giảm nhẹ định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS? Đây là vấn đề rất khó xác định cần phải có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

4.3. Vấn đề phương tiện và phương pháp của người phòng vệ và người xâm hại khi thực hiện quyền phòng vệ

Trong các văn bản hướng dẫn về hành vi của người phòng vệ trước đây có nêu “người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng, quá đáng”. Hành vi phòng vệ thể hiện một quyền của con người đó là quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe được pháp luật bảo vệ và khuyến khích thực hiện. Do đó, khi có hành vi xâm hại thì người phòng vệ có quyền bảo vệ mình, do người phòng vệ không có sự đề phòng trước nên về phương tiện, phương pháp sử dụng để đối phó của người phòng vệ đối với người xâm hại thông thường không bằng sự nguy hiểm do phương tiện, phương pháp do người xâm hại gây ra cho người phòng vệ nhưng trong nhiều trường hợp cũng có thể hơn, vì thế không bắt buộc là phải ngang bằng nhau.

4.4. Vấn đề xác định thế nào là Phòng vệ chính đáng và Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Trong thực tiễn xét xử, các trường hợp có nhiều khó khăn trong việc phân biệt, đánh giá giữa phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong các trường hợp:

– Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tài sản, còn bên phòng vệ có hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người có hành vi xâm hại: Đối với trường hợp mà bên xâm hại có hành vi xâm hại đến tài sản (trộm cắp thông thường) thì hành vi của người phòng vệ đánh bị thương kẻ tấn công được coi là tương xứng và cần thiết , nếu bắt gặp tên trộm đang vào trong nhà để ăn trộm thì việc đánh bị thương tên trộm là việc mà mọi người cho là bình thường. Tuy nhiên, nếu người phòng vệ lại có hành vi giết chết hoặc gây thương tích nặng cho kẻ xâm hại thì trong thực tiễn xét xử, hành vi đó bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Trừ một số trường hợp mà hành vi trộm cắp mang tính chất nguy hiểm như hành vi lẻn vào lấy cắp ở một nơi được bảo vệ đặc biệt). Trong thực tiễn xét xử, đối với các vụ án xâm phạm đến tài sản của nhà nước thì tính chất phòng vệ chính đáng thường được chấp nhận dễ dàng hơn so với trường hợp tài sản bị xâm hại là tài sản riêng của công dân.

– Bên xâm hại có hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm còn bên phòng vệ có hành vi giết người, làm chết người hoặc gây thương tích nặng cho người có hành vi xâm hại: Đối với những hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm thì việc xem xét, đánh giá hành vi phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thông thường được vận dụng như sau:

+ Đối với những hành vi xâm phạm đến nhân phẩm của người phụ nữ (chẳng hạn như hiếp dâm) thì mặc dù người phụ nữ có hành vi chống trả và gây ra cái chết hoặc gây ra thương tích nặng cho kẻ tấn công thì thực tiễn xét xử vẫn dễ chấp nhận việc chống trả là cần thiết và là phòng vệ chính đáng.

+ Nếu người tấn công có hành vi xâm hại và cố ý gây thương tích thậm chí có thể đe dọa không những cho sức khỏe mà còn đe dọa tính mạng của người khác, còn hành vi phòng vệ là gây chết người hoặc gây thương tích nặng cho kẻ tấn công, thì cần phải cân nhắc, so sánh phương tiện, phương pháp mà các bên đã sử dụng, tương quan lực lượng và khả năng của các bên, hoàn cảnh thực tế khi xảy ra sự việc. Trong trường hợp mà hành vi tấn công xâm hại đến sức khỏe, tính mạng thì khi phân biệt giữa cần thiết và không cần thiết, cần phải chú ý đến tình trạng tinh thần của người phòng vệ bị tấn công đột ngột kích động, người phòng vệ không phải bao giờ cũng có khả năng lường được một cách chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại và lựa chọn phương cách phòng vệ cho thật tương xứng. Tuy nhiên, trong thực tế vấn đề này là hết sức phức tạp đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải nắm vững lý luận về phòng vệ chính đáng, phải thu thập và đánh giá đầy đủ mọi chứng cứ có liên quan đến vụ án để từ đó mới có thể đưa ra những quyết định chính xác.

Vấn đề xác định thế nào là phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 22 BLHS thực tế rất khó khăn, trên thực tiễn xét xử vẫn có những nhận thức rất khác nhau. Trên thực tế hiện nay, không chỉ có hành vi xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng mà đang nổi lên việc xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản sau đó đi liền với sự xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ đối với người bị xâm phạm.

4.5. Vấn đề về Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với các trường hợp Phạm tội trong khi thi hành công vụ

Một trong những vấn đề mà thực tiễn áp dụng pháp luật về phòng vệ chính đáng đặt ra, đó là việc phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với các trường hợp phạm tội trong khi thi hành công vụ. Trong thực tế, những trường hợp gây án mạng hoặc gây thương tích nặng trong khi thi hành nhiệm vụ xảy ra khá nhiều, chủ yếu là những trường hợp gây chết người hoặc gây thương tích nằm ngoài sự mong muốn của những người này, tuy nhiên cũng có một số trường hợp có thái độ cố ý trực tiếp, những sự việc xảy ra trong khi họ thi hành lệnh bắt người, dẫn giải tội phạm… Tính nguy hiểm của hành vi cũng ở những mức độ khác nhau: Có khi là hết sức nguy hiểm (như xả súng bắn hàng loạt vào một nhóm tội phạm ma tuý bị truy nã đang chạy trốn) nhưng có những trường hợp ở mức độ bình thường như là bắn cảnh cáo về phía người vi phạm nhưng không may đã làm chết người hoặc gây thương tích. Có trường hợp người thực thi nhiệm vụ nổ súng để bảo vệ mình hoặc bảo vệ người khác trước hành vi tấn công của người phạm tội, một số trường hợp khác người thực thi nhiệm vụ nổ súng vào người đang phạm pháp (ví dụ: đang lấy trộm, cướp giật…), có những trường hợp việc gây tai nạn là để đối phó với việc nạn nhân chạy trốn hoặc kháng cự, không tuân theo lệnh của người thực thi nhiệm vụ dẫn giải, có khi là để đối phó với việc nạn nhân vừa phạm pháp vừa chạy trốn, hoặc chạy trốn để hoàn thành việc phạm pháp (ví dụ vừa cướp vừa chạy trốn). Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí vì quá cẩu thả, không suy nghĩ tới hậu quả nghiêm trọng do hành vi của mình gây ra hoặc đơn giản là khi người này say rượu. Phần lớn các trường hợp, động cơ của người thực thi nhiệm vụ là muốn thi hành nhiệm vụ, muốn người phạm pháp không thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Mặc dù vậy, vẫn có những trường hợp người thực thi nhiệm vụ có động cơ cá nhân như muốn thỏa mãn sự bực tức vì thái độ của nạn nhân hoặc đơn giản chỉ là muốn tỏ ra mình có một uy quyền nhất định đối với nạn nhân.

Theo quy định của BLHS, bên cạnh các tội: Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126 BLHS), Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 BLHS), còn có Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127 BLHS) và Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137 BLHS). Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải phân biệt để định tội danh cho đúng trường hợp nào là phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng còn trường hợp nào là phạm tội trong khi thi hành công vụ. Cũng cần phải khẳng định ở đây, nếu nạn nhân có hành vi vi phạm mang tính chất nhỏ nhặt, nạn nhân tuân thủ mệnh lệnh của người có thẩm quyền nhưng do hống hách, có thái độ coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác mà người có thẩm quyền lại có hành vi gây thương tích hoặc làm chết nạn nhân thì trường hợp này đương nhiên không được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng như phạm tội trong khi thi hành công vụ mà phải bị coi là trường hợp phạm tội thông thường.

Để phân biệt giữa phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và phạm tội trong khi thi hành công vụ trong trường hợp bị cáo là người đang thi hành công vụ, cần làm rõ:

– Nếu hành vi gây thiệt hại cho nạn nhân là nhằm ngăn chặn sự tấn công của nạn nhân gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người thi hành công vụ hay người khác hoặc việc gây thiệt hại đó nhằm ngăn chặn nạn nhân có một hành vi xâm hại cho một lợi ích nào đó của xã hội trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

– Nếu hành vi gây thiệt hại là nhằm ngăn chặn một người phạm pháp trốn tránh pháp luật như : bỏ chạy, kháng cự không tuân theo (không có sự tấn công gây nguy hiểm cho tính mạng hoặc sức khỏe của người thực thi nhiệm vụ hay người khác), trong trường hợp này nếu không cần thiết thì là phạm tội trong khi thi hành công vụ.

Tuy nhiên, nếu người thực thi nhiệm vụ sử dụng vũ khí và đã gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của những người trốn tránh chưa chấm dứt tội phạm thì vấn đề trở nên phức tạp hơn nhiều.

4.6. Trường hợp Vượt quá giới hạn Phòng vệ chính đáng với Phạm tội do tinh thần bị kích động mạnh

Theo tinh thần của Chỉ thị số 07/TANDTC ngày 22/12/1983 và Nghị quyết 02/HĐTP – TANDTC ngày 05/01/1986 thì hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần bảo vệ, hành vi đó bắt đầu và chưa kết thúc. Trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc thì mọi hành vi chống trả cũng không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu trường hợp hành vi xâm phạm đã kết thúc sau đó tiếp tục xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì người chống trả vẫn được xem là phòng vệ.

5. Dấu hiệu pháp lý của chế định phòng vệ chính đáng.

Một người vì lợi ích chính đáng của mình hay của người khác hoặc lợi ích của nhà nước, được quyền hành động khi nguồn nguy hiểm do con người đã và đang gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp. Các nguồn nguy hiểm khác như gây hại của thú dữ, của súc vật, của thiên nhiên không coi là cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.

Về mặt khoa học cần có các nội dung sau đây:

+ Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng khi thỏa mãn 3 điều kiện sau:

Về hành vi tấn công: Hành vi tấn công phải là của con người (bao gồm cả hành vi tấn công của trẻ em hoặc người mắc bệnh tâm thần).

Về tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi tấn công: Hành vi tấn công phải có nguy cơ gây ra một thiệt hại ở mức độ đáng kể cho xã hội cần được bảo vệ.

Về thời điểm của hành vi tấn công: Hành vi tấn công phải đang hiện tại. Được coi là hành vi tấn công đang hiện tại có thể thuộc một trong các trường hợp sau:

Hành vi tấn công đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc.

Hành vi tấn công chưa xảy ra nhưng có nguy cơ sẽ xảy ra ngay tức khắc. Nếu hành vi tấn công mới ở mức độ đe doạ mà chưa có nguy cơ xảy ra ngay tức khắc mà đã thực hiện hành vi phòng vệ chống trả để gây thiệt hại cho người đe doạ được gọi là phòng vệ quá sớm. Người thực hiện hành vi phòng vệ quá sớm phải chịu TNHS bình thường.

Hành vi tấn công đã kết thúc nhưng nếu hành vi phòng vệ đi liền ngay sau hành vi tấn công và khắc phục được hậu quả của hành vi tấn công gây ra (trường hợp này chỉ có thể xảy ra đối với hành vi tấn công gây thiệt hại về tài sản).

Nếu hành vi tấn công đã kết thúc mà việc thực hiện hành vi phòng vệ không đi liền sau hành vi tấn công và không khắc phục được hậu quả của hành vi tấn công mà thực hiện hành vi phòng vệ chống trả để gây thiệt hại cho người đã thực hiện hành vi tấn công được gọi là phòng vệ quá muộn. Người thực hiện hành vi phòng vệ quá muộn phải chịu TNHS bình thường.

+ Nội dung của quyền phòng vệ chính đáng.

Hành vi phòng vệ chính đáng chỉ được phép gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp. Thiệt hại này có thể là tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dang thực hiện hành vi tấn công xâm hại. Thiệt hại về tài sản có thể là thiệt hại về công cụ, phương tiện mà người có hành vi xâm hại sự dụng.

Hành vi phòng vệ không đưuọc phép gây thiệt hại cho người thứ ba. Bởi một trong các mức đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn mục đích tạm thời có hiệu quả hành vi đang gây thiệt hại cho các lọi ích hợp pháp, cho nên người phòng vệ phải ngăn chựn chính nguồn nguy hiểm, chính người đang có hành vi xâm hại. Nếu gây hại cho người khác thì không đạt được mục dích này.

Phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng đó là người phòng vệ chỉ được quyền gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công trí pháp luật trong giới hạn “cần thiết”. Gây thiệt hại trong giới hạn cần thiết thì không bị coi là tội phạm.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực hình sự về phòng vệ chính đáng, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group