Phúc lợi kinh tế (economic welfare) là phần trong phúc lợi của con người phát sinh từ việc tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ. Nó có thể được định nghĩa là phúc lợi của cá nhân hay một nhóm người. Pigou cho rằng có một phần phúc lợi kinh tế không thể biểu thị bằng tiền. Mặc dù ban đầu phúc lợi kinh tế được coi là đồng nghĩa với sự thỏa mãn hay ích lợi, nhưng một số nhà kinh tế cho rằng phúc lợi kinh tế là khái niệm đạo đức và gắn với nhận định chủ quan. Tuy nhiên, các nhà kinh tế khác lại cho rằng khái niệm phúc lợi kinh tế có ý nghĩa chính xác, không mang màu sắc đạo đức. Nhiều khó khăn khác nảy sinh khi chúng ta muốn tính toán phúc lợi kinh tế nhằm xác định những thay đổi trong phúc lợi kinh tế hay thảo luận về phúc lợi kinh tế của một nhóm người (tầng lớp, giai cấp trong xã hội), Để giải quyết những khó khăn này, các nhà kinh tế sử dụng cái gọi là hàm phúc lợi xã hội để gắn phúc lợi của một nhóm người với phúc lợi của các cá nhân hợp thành nhóm người đó. Khoa kinh tế phúc lợi nghiên cứu phương thức tác động của tổ chức kinh tế đối với các thành viên của xã hội.