Một xã hội “vì con người, cho con người, bảo vệ con người” trở nên phổ biến ở nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Để xây dựng được xã hội đáp ứng các mục tiêu đó thì vai trò và trách nhiệm đầu tiên và nặng nề nhất phải thuộc về nhà nước – tổ chức quyền lực chung của toàn xã hội và cũng là tổ chức có nhiều ưu thế nhất trong số các tổ chức của xã hội. Tuy nhiên, không phải nhà nước nào cũng đủ khả năng xây dựng được xã hội lí tưởng như trên mà sứ mệnh là công cụ chủ yếu và quan trọng nhất để xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng, xã hội vì con người, cho con người chỉ có thể thuộc về nhà nước pháp quyền, nhà nước phục vụ xã hội với những đặc trưng tiến bộ của nó. Do đó, nhà nước pháp quyền trở thành mẫu hình lí tưởng, thành ước mơ vươn tới của tất cả các nhà nước dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Theo xu thế chung của thời đại và xuất phát từ đòi hỏi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, việc xây dựng nhà nước pháp quyền là một nhu cầu tất yếu và “Sụ- đòi hỏi cần phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không phải là ỷ muôn kì quặc của ai đó mà là mệnh lệnh khách quan của thời đạĩx Ý thức được điều này nên trong văn kiện của nhiều kì Đại hội Đảng toàn quốc, từ Đại hội VII đến Đại hội XII đều coi nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong những nhiệm vụ họng tâm trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là điều kiện không thể thiếu để có nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Đồng thời, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn được cụ thể hóa trong văn kiện Đảng mỗi nhiệm kì trên cơ sở kết quả đã đạt được của nhiệm kì trước và bảo đảm sự phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội Đảng IX mới xác định “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” thì Văn kiện Đại hội Đảng X xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Văn kiện Đại hội XI xác định “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lí kinh tế, quản lí xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường” và Văn kiện Đại hội XII xác định “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung các văn kiện của Đảng đã chỉ rõ quan điểm và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền ở đất nước ta. Đó là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà không thể là nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa như ở một số nước khác. Thực tế, công cuộc xây dựng Nhà nước và xã hội xã hội chủ nghĩa đã được xác định và tiến hành ở miền Bắc từ năm 1960 và trên phạm vi cả nước từ năm 1976, sau khi hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Ngay từ buổi đầu thành lập tới nay, Nhà nước ta đã mang một số yếu tố của nhà nước pháp quyền, song mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mới chỉ chính thức trở thành mục tiêu hiến định từ năm 2001 đến nay, sau khi Hiển pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đó là xu thế khách quan, tất yếu, mang tính quy luật, là yếu tố bảo đảm sự đúng hướng của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền dân chủ chân chính của nhân dân, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và hợp tác quốc tế ở nước ta. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay được tiến hành theo phương hướng: “Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng bộ mảy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh; hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chỉnh, cải cách tư pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ”)
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được thể chế hóa, ghi nhận trong Hiến pháp, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền được xúc tiến và ngày càng được đẩy mạnh. Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thiết kế ngày càng rõ ràng, cụ thể, được thể hiện trong Hiến pháp hiện hành với nội dung (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 30/8/2017):
“1. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhăn dân.
2. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dăn và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ” (Điều 2 Hiến pháp năm 2013).
Nước ta xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện đất nước thoát khỏi chiến tranh chưa lâu, trình độ phát triển của nền kinh tế – xã hội, của nền dân chủ… nhìn chung đều còn thấp, tổ chức và hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam… Những yếu tố đó có tác động mạnh mẽ đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Mặc dù Nhà nước Việt Nam hiện nay mới chỉ là nhà nước của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, song có thể khẳng định, ở nước ta đã có đầy đủ các tiền đề cần thiết, những yếu tố nền móng định hình cho nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sự quy định trong Hiến pháp tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Nhà nước pháp quyền Việt Nam từng bước được xây dựng và ngày càng hoàn thiện hơn. Hệ thống pháp luật Việt Nam không ngừng được hoàn thiện theo hướng nhằm đáp ứng các yêu cầu của pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội đã được xác lập và trở thành nguyên tắc hiến định. Hiểu biết pháp luật của nhân dân dần được nâng cao, lối sống theo pháp luật đang từng bước hình thành và ngày càng lan toả trong xã hội.
Nhà nước Việt Nam hiện nay được xây dựng trên cơ sở chủ quyền của nhân dân, đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở Nhà nước ta, cơ chế phân cồng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được xác lập và ngày càng trở nên rõ ràng, nhịp nhàng hơn. Nền dân chủ đã được thiết lập và ngày càng được mở rộng…
Xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp. Để xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, đòi hỏi phải có sự chuyển biến tích cực, mạnh mẽ cả về tư duy và hành động của Nhà nước, xã hội cũng như mỗi cá nhân. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay, cần phải tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước theo hướng phát triển bền vững, mở rộng dân chủ, tạo lập nền tảng kinh tế – xã hội vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất
tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các tiêu chỉ của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, đồng thời tổ chức thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả
Mặc dù thời gian qua, Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như tổ chức thực hiện pháp luật, song đối chiếu với những yêu cầu của pháp luật trong nhà nước pháp quyền thì vẫn còn một khoảng cách lớn. Vì thế, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Mở rộng hơn nữa sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, đảm bảo hệ thống pháp luật thực sự dân chủ, thể hiện đúng đắn và đầy đủ ý chí của nhân dân. Pháp luật phải thừa nhận rộng rãi hơn các quyền con người, quyền công dân. Hệ thống pháp luật chủ yếu được thể hiện trong các văn bản luật do Quốc hội ban hành, được xây dựng với kĩ thuật lập pháp cao, trong đó Hiến pháp có hiệu lực pháp lí cao nhất, hạn chế tình trạng luật ban hành nhưng phải có văn bản hướng dẫn mới thực hiện được; tiếp tục giảm dần và đi tới xoá bỏ pháp lệnh. Pháp luật phải phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như với thông lệ khu vực và thế giới…
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giảo dục pháp luật; xây dựng lối sổng theo pháp luật
Hiện nay, trong xã hội Việt Nam vẫn tồn tại lối sống tùy tiện, theo bản năng; hiểu biết pháp luật của người dân nói chung còn khá thấp, vẫn còn hiện tượng nhiều người dân “mù luật”; tình hình vi phạm pháp luật trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp. Chính vì vậy, cần phải tích cực giáo dục để nâng cao ý thức pháp luật, trình độ văn hoá pháp lí cho nhân dân; xây dựng, không ngừng củng cố và nhân rộng lối sống theo pháp luật trên toàn xã hội. Đây là giải pháp không thể thiếu, có tính cốt tử đối với việc bảo đảm thành công cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Thứ ba ,
đổi mới quan hệ giữa nhà nước với công dân và xã hội theo hướng chuyển dần từ nhà nước quản lỉ, chỉ huy xã hội sang nhà nước phục vụ xã hội
Trong xu thế các nhà nước phát triển trên thế giới đều đang chuyển dần từ quản lí xã hội sang phục vụ xã hội thì Nhà nước Việt Nam cũng tất yếu phải chuyển đổi theo xu hướng đó. Mặc dù hoạt động của Nhà nước ta hiện nay còn nặng về tính quản lí, song tính phục vụ đã hình thành và mở rộng dần theo thời gian. Tuy nhiên, để có thể hoàn thiện nhà nước theo hướng đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu của nhà nước pháp quyền thì Nhà nước ta vẫn phải cố gắng không ngừng để ngày càng giảm bớt tính chất quản lí và tăng dần tính chất phục vụ trong hoạt động của mình. Việc Nhà nước đang cố gắng cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao tinh thần và thái độ phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp, đấu tranh mạnh mẽ với các hiện tượng vi phạm pháp luật… chính là những biểu hiện cụ thể của sự chuyển đổi đó.
Thứ tư,
tiếp tục đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ mảy nhà nước
Nhìn chung, từ khi công cuộc đổi mới bắt đầu đến nay, đặc biệt là khi công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền được tiến hành, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung, từng bộ phận cụ thể cấu thành nên nhà nước nói riêng liên tục được đổi mới và đã đạt được khá nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục. Vì thế, trong thời gian tới, Nhà nước ta phải tiếp tục đổi mới tích cực hơn để có thể thực hiện được những mục tiêu đã được đề ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng là: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thỉ quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền” – Xem: Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phong Trung ương Đảng.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lí, sử dụng các nguồn lực của đất nước. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Tiếp tục thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù họp với đặc điểm ở từng khu vực. Bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lí nhà nước của mỗi cấp chính quyền địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Thứ năm, đổi mớỉ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trở lại đây, Đảng đã không ngừng đổi mới sự lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội cả trong nhận thức lẫn thực tiễn hoạt động. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, cần phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.