1. Chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của đương sự vắng mặt

1.1 Khái quát

Tại khoản 3 Điều 260 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp”.
Với quy định trên thì tại bước hỏi của phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của đương sự, người tham gia tố tụng khác trong trường hợp họ vắng mặt tại phiên tòa mà trong quá trình giải quyết vụ án họ đã có lời khai. Đây là thủ tục bắt buộc, nếu chủ tọa phiên tòa không thực hiện sẽ bị coi là vi phạm thủ tục tố tụng. Ngoài công bố lời khai của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) vắng mặt, thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của người tham gia tố tụng khác nếu họ vắng mặt tại phiên tòa như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định… Việc công bố lời khai của đương sự, người tham gia tố tụng khác vắng mặt là để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. Như vậy, trong trường hợp tại phiên tòa tất cả các đương sự vắng mặt, thì chủ tọa phiên tòa có cần phải công bố lời khai của những người vắng mặt không?
Ngoài ra, tại điểm a khoản 1 Điều 254 BLTTDS 2015 quy định về bước TRANH LUẬN của phiên tòa, Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án trong trường hợp người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Như vậy, chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của những người tham gia tố tụng nhưng vắng mặt tại phiên tòa đến hai lần: Lần đầu trong thủ tục công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án và lần thứ hai trong thủ tục tranh luận.
Thực tiễn áp dụng quy định này có trường hợp Chủ tọa phiên tòa không công bố lời khai của đương sự và người tham gia tố tụng khác theo quy định tại khoản 3 Điều 260 của BLTTDS năm 2015. Bởi vì, Điều 254 BLTTDS năm 2015 đã quy định những trường hợp Hội đồng xét xử công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án, trong đó, tại điểm a khoản 1 quy định: “Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”, ngoại trừ những trường hợp không công bố tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 254 BLTTDS năm 2015. Do đó, việc công bố lời khai của đương sự và người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phần thủ tục tranh luận chính là việc chủ tọa phiên tòa công bố lại lời khai của họ đã được công bố tại phần thủ tục hỏi tại phiên tòa.

1.2 Vụ án thứ nhất, tranh chấp về “ly hôn, nuôi con khi ly hôn”

Ngày 10/4/2020, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt cả chị X và anh H theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của BLTTDS năm 2015.
Trong vụ án này, do tất cả các đương sự đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định khoản 3 Điều 238 của BLTTDS năm 2015 công bố tóm tắt vụ án và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thảo luận những vấn đề cần giải quyết trong vụ án nhưng đã không công bố lời khai của các đương sự trong vụ án.
Qua vụ án như viện dẫn nêu trên cho thấy đã có quy định bị trùng lắp và có thể mâu thuẫn khi triển khai trên thực tế, do đó, người viết kiến nghị bỏ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 254 BLTTDS năm 2015: “Người tham gia tố tụng không có mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai trong giai đoạn chuẩn bị xét xử”.

2. Về công bố lời khai của tất cả những người tham gia tố tụng khác (không phải là đương sự)

trong thủ tục tranh luận

2.1 Vụ án thứ hai, tranh chấp về “Quyền sử dụng đất, thừa kế về tài sản”

Do vụ án trên có tính chất rất phức tạp nên Tòa án tiến hành lấy lời khai rất nhiều người làm chứng để chứng minh nguồn gốc đất, quá trình sử dụng, canh tác đất nhưng Tòa án không thể triệu tập tất cả những người làm chứng đến tham dự phiên tòa. Do đó, tại phiên tòa Hội đồng xét xử chỉ công bố một số lời khai của người làm chứng có liên quan trực tiếp và ảnh hưởng đến nội dung vụ án chứ không bố hết tất cả các lời khai có trong hồ sơ vụ án. Mặt khác, vụ án có tính chất phức tạp, nhiều đương sự và nội dung vụ án dài nên Hội đồng xét xử chỉ công bố lời khai của những người làm chứng và đương sự vắng mặt một lần trước khi phần thủ tục tranh luận tại phiên tòa mà không công bố lập lại hai lần như quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

2.2 Sự có mặt tại phiên tòa

Nhận thấy theo quy định của BLTTDS 2015,  người tham gia tố tụng khác bao gồm nhiều người có tư cách pháp lý khác nhau và vai trò của họ trong vụ án cũng khác nhau, gồm: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ tham gia vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà mình bảo vệ bằng nhiều phương pháp, cách thức theo quy định pháp luật. Khoản 3 Điều 76 BLTTDS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia hòa giải, phiên họp công khai chứng cứ, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét. Do đó, tại phiên tòa họ vắng mặt nhưng có gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án thì Chủ tọa phiên tòa công bố nội dung văn bản này để trên cơ sở đó các đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác tranh luận, đối đáp.
Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ án được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Họ không phải là đương sự trong vụ án nên không có quyền lợi, nghĩa vụ gì liên quan trong vụ án. Trường hợp người làm chứng có mặt tại phiên tòa thì theo quy định của pháp luật họ không tham gia vào quá trình tranh luận nên không có lý do để công bố lời khai trong phần tranh luận khi họ vắng mặt. Nếu mục đích công bố lời khai của người vắng mặt để các bên tham gia tranh luận thì người làm chứng cũng không có quyền tranh luận để đối đáp với các đương sự. Do đó, việc công bố lời khai của người làm chứng trong giai đoạn này là không phù hợp, không cần thiết.
Do đó, người viết nhận thấy cần giới hạn lại việc công bố lời khai của những chủ thể có quyền tham gia tranh luận nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Theo đó, chỉ công bố lời khai của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ trường hợp tài liệu, chứng cứ không được công bố theo quy định tại khoản 2 Điều BLTTDS.
Người viết kiến nghị khoản 3 Điều 260 BLTTDS cần sửa đổi, bổ sung như sau: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp”.

3. Trong thủ tục tranh luận, pháp luật không quy định trình tự công bố lời khai của những người vắng

mặt tại phiên tòa

Tại khoản 1 Điều 260 BLTTDS quy định, sau khi kết thúc việc hỏi thì Hội đồng xét xử tuyên bố chuyển sang phần tranh luận. Thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu ý kiến trước, rồi đến nguyên đơn bổ sung ý kiến (nếu có). Trong vụ án nếu là cơ quan, tổ chức khởi kiện thì người đại diện cơ quan, tổ chức đó phát biểu trước, sau đó đến người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ sẽ có ý kiến bổ sung; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến tranh luận và đối đáp, bị đơn có quyền bổ sung ý kiến (nếu có); Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến (nếu có). Nếu tại phiên tòa có vắng mặt một trong có đương sự và người tham gia tố tụng khác thì Chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của người vắng mặt đó. Điều luật này không quy định rõ thời điểm công bố lời khai của người vắng mặt để trên cơ sở đó các đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp. Thực tiễn áp dụng, phần lớn các Chủ tọa phiên tòa công lời khai của những người tham gia tố tụng theo trình tự phát biểu tranh luận.
Qua phần tóm tắt thủ tục tranh luận tại phiên tòa nêu trên, người viết nhận thấy: Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt tại phiên tòa tương ứng với trình tự phát biểu khi tranh luận theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 260 BLTTDS. Điều này là hoàn toàn hợp lý, logic và phù hợp với bản chất tranh luận tại phiên tòa.
Do đó, người viết kiến nghị khoản 3 Điều 260 cần sửa đổi, bổ sung như sau: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp; việc công bố lời khai của họ được thực hiện tương ứng với trình tự phát biểu khi tranh luận theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng dân sự”.

4. Lời khai bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên

Thủ tục công bố lời khai thực hiện theo khoản 3 Điều 260 BLTTDS sẽ được thực hiện sau thủ tục công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án. Như vậy, khoản 2 Điều 254 BLTTDS quy định những trường hợp không công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án có được áp dụng cho khoản 3 Điều 260 BLTTDS hay không? Nghĩa là, lời khai của đương sự và người tham gia tố tụng khác thuộc trường hợp cần giữ gìn bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, giữ gìn bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bảo vệ người chưa thành niên theo yêu cầu của đương sự thì chủ tọa phiên tòa có được công bố hay không.
Tại phần thủ tục tranh luận, khoản 3 Điều 260 BLTTDS chỉ quy định trường hợp vắng mặt một trong các đương sự và người tham gia tố tụng khác thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ, mà không có quy định đối với các trường hợp không được công bố lời khai nên dẫn đến có quan điểm không thống nhất về vấn đề này.
Theo người viết, dù điều luật không quy định rõ, nhưng những nội dung của đương sự và người tham gia tố tụng khác đã khai thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 254 BLTTDS thì chủ tọa phiên tòa không công bố lời khai của họ. Theo người viết, cần bổ sung quy định về trường hợp chủ tọa phiên tòa không được công bố lời khai của đương sự và người tham gia tố tụng khác.
Người viết kiến nghị khoản 3 Điều 260 BLTTDS cần sửa đổi, bổ sung như sau: “Trường hợp vắng mặt một trong các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì chủ tọa phiên tòa phải công bố lời khai của họ để trên cơ sở đó các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có mặt tại phiên tòa tranh luận và đối đáp; trừ tài liệu, chứng cứ không được công bố theo quy định tại khoản 2 Điều 254 Bộ luật Tố tụng dân sự; việc công bố lời khai của họ được thực hiện tương ứng với trình tự phát biểu khi tranh luận theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 260 Bộ luật Tố tụng dân sự”./.
(Sưu tầm và biên tập)