1. Điều chỉnh pháp lý quan hệ thương mại quốc tế

Các vấn đề chung nhất về lĩnh vực thương mại, như các điều kiện hợp tác chung của các quốc gia trong lĩnh vực thương mại; quy định chế độ pháp lý mà các bên hữu quan dành cho nhau trong lĩnh vực thuế quan, xuất- nhập khẩu hàng hoá, thương mại, hàng hải, vận tải và quá cảnh; hoạt động cùa thể nhân, pháp nhân nước ký kết này trên lãnh thổ nước ký kết khác đều dựa trên thoả thuận giữa các quốc gia. Trên cơ sở đó, các thoả thuận và hoạt đông về từng lĩnh vực cụ thể của hợp tác thương mại giữa cac quốc gia mới được triển khai. Chẳng hạn, liên quan đến quan hê trao đổi thương mại cụ thể, các bên có thể ký kết các hiệp định thương mại quốc tế, ghi nhân số lượng hạn định (hạn ngạch) được chính phủ các bên hữu quan nhất trí đồng ý và ghi nhận trong danh mục ttao đổi hàng hoá giữa các bên. Theo các quy định của các hiệp định dài hạn, đanh mục hàng hoá có thể được bổ sung vạ quy định rõ thêm theo sự thoả thuận đổng ý của các bên hữu quan. Theo quy định, hàng năm các chính phủ sẽ ký nghị định thư về cung cấp hàng hoá trên cơ sở của hiệp định dài hạn. Nội dung pháp lý quốc tế cơ bản của hiệp định lưu thông hàng hoá là vấn đề chính phủ các bên hữu quan thoả thuận nhất trí chung số lượng hạn định hàng hoá (tên và số lượng hàng hoá trao đổi theo quy định) và nghĩa vụ tương ứng dành cho mỗi quốc gia tham kết. Cốt lõi của các nghĩa vụ này là đảm bảo thuận lợi, không có trở ngại nào trong việc cấp giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong giới hạn của số lượng hàng hoá theo hạn ngạch, còn trong một số trường hợp dựa trên cơ sở có đi có lại – trong việc bảo đảm nhất định việc cung cấp hàng hoá.

Tương tự, việc điều chỉnh hoạt động thương mại liên quan đến các loại hàng hoá nông nghiệp và nguyên liệu khoáng sản được thực hiện bằng việc ký kết các hiệp định hàng hoá quốc tế, trong đó quy định khối lượng hàng hoá cung cấp trên thị trường thế giới.

Mục đích chung của tất cả các hiệp định hàng hoá là ổn định giá cả của thị trường thế giới bằng biên pháp cân bằng giữa cung và cầu, mở rộng hợp tác quốc tế trên thị trường thế giới, đảm bảo tư vấn giữa các quốc gia, cải thiện tình hình trong nền kinh tế thế giới, phát triển thương mại, quy định giá cả hợp lý đốì với sản phẩm nông nghiệp và nguyên liệu khoáng sản. Chính vì vậy, trong một số hiệp định loại này đã ấn định việc thành lập quỹ dự phòng một số sản phẩm, VỊ dụ ìihư thiếc, cao su tự nhiên. Nhờ có quỹ dự phòng này có thể ngăn chặn được sự thay đổi đột ngột giá cả của hàng hoá và khả nãng xuất hiên khùng hoảng trong sản xuất cũng như buôn bán loại hàng hoá này. Mặt khác, có điều ước quốc tế, như thoả thuận về ca cao quy định, các quốc gia – thành viên thông báo trước khi kết thúc năm dương lịch hoặc năm nông nghiệp cho các cơ quan có thẩm quyền được thành lập theo các hiệp định liên quan các thông tin về số lượng hàng hoá dự trữ. Các thông tin này nhằm mục đích cho phép các quốc gía thành viên xuất khẩu xác định chính sách của mình trong sản xuất loại hàng hoá nông nghiệp hoặc nguyên liệu khoáng sản.

Ngoài ra, các hiệp định hàng hoá quốc tế còn thành lập các tổ chức quốc tế chuyên biệt, như tổ chức quốc tế về đường, về thiếc, về ca cao, về cà phê. Chức năng chủ yếu của các tổ chức quốc tế này là kiểm soát việc thi hành các điều khoản của hiệp định hữu quan.

Bên cạnh việc sử dụng các loại điều ước quốc tế nói trên như là công cụ pháp lý quốc tế quan trọng để điều chỉnh các hoạt động giữa các chủ thể luật quốc tế trong quan hệ thương mại quốc tế, cộng đồng các quốc gia còn sử dụng các công cụ. pháp lý quan trọng khác sau đây:

– Công ước quốc tế quy định mối quan hệ giữa các quốc gia về các vấn đề chuyên môn trong lĩnh vực buôn bán quốc tế, ví dụ, các công ước về thuế quan.

– Tập quán thương mại quốc tế, đây là thực tiễn quốc tế được áp dụng lâu dài trong các quan hệ thương mại quốc tế.

– Phán quyết của toà án và trọng tài quốc tế.

– Quy định và quyết định của các tổ chức quốc tế được thồng qua trong giới hạn thẩm quyền của các tổ chức quốc tế hữu quan nếu không trái với các nguyên tắc của luật quốc tế.

Vấn đề hệ thống hoá và pháp điển hoá các quy phạm luật quốc tế trong lĩnh vực thương mại quốc tế đã được thực hiện dưới sự quản lý và điều hành của UNCITRAL – ủy ban Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế.

2. Điều chỉnh pháp lý quan hệ tài chính-tiền tệ quốc tế

Quan hệ tài chính-tiền tệ quốc tế là loại quan hệ xã hội đặc thù trong lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế. Đây là loại bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thế giới. Quan hệ tài chính-tiền tệ thế giới phát sinh trong mọi lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế khác nhau giữa các quốc gia, chẳng hạn, trong hoạt động thương mại quốc tế, giúp đỡ về kinh tế và kỹ thuật, trong lĩnh vực đầu tư, trong hoạt động vân chuyển quốc tế. Cũng như hợp tác quốc tế thương mại, quan hệ hợp tác tài chính- tiền tệ quốc tế hầu hết là trên cơ sở các thoả thuận quốc tế mà quan trọng hơn cả là các hiệp định tín dụng và hiệp định thanh toán.

Đối với hiệp định tín dụng, các quốc gia có thể thoả thuận xây dựng các hiệp định tín dụng dài hạn (trên năm năm); hiệp định tín dụng trung hạn (từ một đến năm năm); hiệp định tín dụng ngấn hạn (đến một năm).

Hiệp định tín dụng dài hạn và trung hạn được sử dụng trong việc giúp đỡ kỹ thuật, khi xây dựng các cơ sở công nghiệp, cung cấp các trang thiết bị, máy móc giá trị cao. Hiệp định tín dụng ngắn hạn chủ yếu được vận hành khi tiến hành các hoạt động mậu dịch hàng hoá. Theo quy định của hiệp định tín dụng, quốc gia cho vay tín dụng cho qúếc gia vay tín dụng một khoản tiền xác định hoặc cung cấp cho nước này một khối lượng hàng hoá nhất định, còn quốc gia vay tín dụng có nghĩa vụ trong thời hạn xác định thanh toán các khoản nợ tín dụng theo các điều kiện mà hai bên đã thoả thuận và ghi nhận trong hiệp định túi dụng (thanh toán bằng vàng, bằng ngoại tệ hoặc bằng hàng hoá) đồng thời quốc gia vay tín dụng phải trả lãi suất cho bên kia từ tổng số giá trị tín dụng. Mức độ lãi suất sẽ do các bên hữu quan này nhất trí xác định.

Như vậy, tín dụng quốc tế có thể được tiến hành trong hai hình thức:

– Hình thức tín dụng bằng tiền được gọi là cho vay. Việc cho vay và thanh toán khoản nợ vay được thực hiên chỉ bằng đổng tiền xác định.

– Tín dụng hàng hoá có thể được thực hiên thanh toán không chỉ bằng đổng tiền cụ thể mà có thể bằng hàng hoá, bằng con đường trao đổi hàng hoá.

Song song với các quan hệ tín dụng, những quan hệ tiền tệ, tài chính quốc tế khác giữa các quốc gia cũng cần có sự điều tiết bằng một loại hình công cụ pháp lý quốc tế là hiệp định về thanh toán quốc tế. Đây là các hiệp định liên chính phủ về trình tự thanh toán sau khi cung cấp hàng hoá hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ hay các hoạt động thương mại và phi thương mại khác trong quan hệ thương mại quốc tế. Các điều khoản về trình tự thanh toán (trả tiền) thường được quy định trong các hiệp định loại khác, ví dụ trong hiệp định về lưu thông hàng hoá, trong trường hợp này hiệp định thường có tên gọi là hiệp định về lưu thông hàng hoá và trả tiền. Trong thực tiễn quan hệ kinh tế quốc tế thường xuất hiên các hiệp định thanh toán quốc tế sau đây:

– Hiệp định thanh toán (trả tiền).

Theo quy định của loại hiệp định này, các quốc gia thoả thuận việc trả tiền sẽ được thực hiện bằng đồng tiền mà các bên tự do hoặc hạn chế lựa chọn. Chính phủ các bên hữu quan có nghĩa vụ cho phép chuyển đổi tiền tệ phù hợp với luật pháp hiên hành của nước mình. Ngoài ra hiệp định trả tiền còn quy định các vấn đề về điều kiện thanh toán, trình tự thanh toán (tiả tiền).

– Hiệp định Clearing.

Đây là loại hiệp định thanh toán dựa trên cơ sở thanh toán không bằng tiền mặt, hiệp định Clearing quy định các quốc gia giải quyết các khoản nợ và yêu cầu phát sinh từ các giao dịch thương mại và giao dịch khác mà không có dịch chuyển tiền tê. Dấu hiệu chính của hệ thống thanh toán Clearing là việc các quốc gia dựa trên cơ sở hiệp định liên chính phủ quy định trình tự thanh toán không bằng tiền mặt tại các ngân hàng trung ương của các quốc gia tham gia hiệp định. Đặc điểm của thanh toán Clearing là sự bảo đảm ngang bằng giữa hàng hoá cung cấp và việc thanh toán (trả tiền) giữa hai quốc gia và cân bằng cán cân giữa chúng theo từng giai đoạn được quy định trong hiệp định Clearing.

Bên cạnh hai loại hiệp định tài chính-tiền tê đã đề cập ở trên, còn xuất hiện loại hiệp định Clearing – thanh toán, đây là loại điều ước quốc tế tiền tệ-tài chính có tính hỗn hợp, theo đó, bên cho vay tín dụng có quyền yêu cầu bên vay phải thanh toán khoản nợ bằng hình thức Clearing (thanh toán bằng vàng) hoặc bằng con đường chuyển tiền mặt (tự do lựa chọn đồng tiền chuyển trả) để trả nợ.

3. Điều chỉnh pháp lý vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật

Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xã hội đã dẫn đến mở rộng và củng cố quá trình phân công lao động quốc tế, thúc đẩy sự phát triển không chỉ các quan hệ chính tri, thương mại và pháp luật mà còn tăng trưởng cả các quan hê khoa học-kỹ thuật giữa các quốc gia, trong đó bao gồm cả quan hệ trong chuyển giao công nghệ và chế tạo. Trong quá trình trao đổi các thành quả khoa học-kỹ thuật giữa các quốc gia, cơ chế điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ này ngày càng hoàn thiện, hệ thống hợp tác toàn cầu trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật được hình thành. Chủ thể của hệ thống này là các quốc gia và tổ chức quốc tế. Hệ thống hợp tác quốc tế toàn cầu trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật và công nghê bao gồm các mối quan hệ khoa học quốc tế có mục đích giải quyết các vấn đề lý luận và thực nghiệm của khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, các quan hê kỹ thuật và công nghệ quốc tế, đảm bảo việc thực hiện an toàn các quá trình sử dụng thành tựu của tiến bộ khoa học-kỹ thuật, ngăn ngừa các thiệt hại đối với môi trường … Chính vì vậy, hệ thống các quy phạm luật quốc tế điều chỉnh hợp tác của các quốc gia trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật tạo nên nền tảng của hợp tác quốc tế về khoa học-kỹ thuật.

Các quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh quá trình hợp tác khoa học-kỹ thuật được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung của luật quốc tế cũng như các nguyên tắc đặc thù (chuyên biệt) được hình thành tương ứng với các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Các nguyên tắc chuyên biệt này bao gồm:

– Nguyên tắc giúp đỡ khoa học-kỹ thuật.

– Nguyên tắc phân chia các lĩnh vực nghiên cứu khoa học giữa các quốc gia riêng biệt có chú ý tới các yếu tố địa lý, xã hội, kinh tế và lịch sử của từng quốc gia.

– Nguyên tắc bình đẳng trong lĩnh vực thành tựu khoa học-kỹ thuật, bao gồm cả trao đổi quốc tế các tài liệu, sách khoa học.

– Nguyên tắc có đi có lại.

Dựa trên nền tảng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và nguyên tắc đặc thù nêu trên xuất hiện trong quan hệ quốc tế về hợp tác khoa học-kỹ thuật, các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế đã thoả thuận nhất trí thông qua các điều ước quốc tế về hợp lác khoa học-kỹ thuật, sử dụng chúng để điều chỉnh các vấn đề phát sinh từ sự hợp tác này giữa các quốc gia. Các hiệp định mới về chất xuất hiện trong thực tiễn quốc tế về trao đổi, nghiên cứu khoa học-kỹ thuật đã hình thành vào thập kỷ 60, khi các quan hệ kinh tế của các quốc gia đã vượt ra ngoài giới hạn các quan hệ thương mại truyền thống. Các hiệp định về hợp tác khoa học-kỹ thuật xác định các triển vọng chung, xu hướng mói và các lĩnh vực hợp tác thương mại-kinh tế, công nghiệp và khoa học-kỹ thuật đồng thời đưa ra các hình thức tổ chức được thành lập giúp đỡ thúc đẩy việc thực hiện sự hợp tác này trong thời hạn quy định.

Các hiệp định về hợp tác khoa học-kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển tiếp cân CÓ hiệu quả thành tựu khoa học-kỹ thuật và công nghệ. Đây là tính chất hàng đầu của các quan hê hợp tác quốc tế về khoa học-kỹ thuật. Trong các hiệp định quy định các bên có nghĩa vụ giúp đỡ thúc đẩy- hợp tác giữa các tổ chức và xí nghiệp hữu quan của cả hai quốc gia, tạo lập các điều kiện thích hợp để thực hiện và phát triển quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Trong một số hiệp định đã có những điều khoản đặc biệt quan tâm đến các vấn đề tài chính, cho vay tín dụng với điều kiện thuận lợi và dễ tiếp nhận nhất giữa các bên. Ngoài ra, các vấn đề thực hiện hiệp định bằng cách ký kết các họp đồng giữa các tổ chức, các hãng, các xí nghiệp hữu quan và vấn đề chính phủ các bên tạo điều kiện giúp đỡ các hợp đồng này cũng được ghi nhận và quan tâm tới trong các hiệp định. Tuy nhiên, không một nghĩa vụ trực tiếp nào kiểu như trên được ghi trong hiệp định mà chỉ ghi nhận quốc gia ủng hộ và góp phần tạo điều kiện cho việc ký kết các hợp đồng này đồng thời các hiệp định cũng không ghi rõ nội dung của các loại hợp đồng mà chỉ xác định đối tượng của chúng. Trong các hiệp định đầu tiên (thế hệ thứ nhất) còn quy định về việc thành lập các ủy ban hợp tác hỗn hợp về khoa học-kỹ thuật.

Bên cạnh các điều ước quốc tế đã phân tích ở trên, quá trình hợp tác phát triển khoa học-kỹ thuật dựa trên cơ sở các điều ước quốc tế hên chính phủ dài hạn đã tạo ra nền tảng để soạn thảo chương trình mười năm hợp tác chứa đựng các vấn đề cơ bản và đối tượng cụ thổ của hợp tác khoa học-kinh tế chung. Chương trình dài hạn phát triển và củng cố hợp tác khoa học-kỹ thuật là loại hiệp định liên chính phủ mới quy định nghĩa vụ của các quốc gia trong phạm vi khả năng của mình tạo thuận lợi cho các tổ chức, các công ty và các hãng thích hợp tham gia vào quá trình thực hiên các dự án cụ thể của hợp tác khoa học-kỹ thuật (ban hành các quyết định nhằm thúc đẩy các hãng, các công ty tham gia vào quá trình hợp tác này).

Điều chỉnh pháp lý các quan hệ hợp tác quốc tế trong khoa học-kỹ thuật còn được củng cố và hoàn thiện hơn nhờ có các công cụ pháp lý quốc tế khác, như tập quán quốc tế (một số tập quán quốc tế đã được ghi nhận trong Công ước về khí hậu thay đổi và công ước về đa dạng sinh học năm 1992), các chương trình của các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật (như chương trình phát triển cùa Liên hợp quốc trong khoa học-kỹ thuật, chương trình phục hồi công nghê của châu Âu).

4. Điều chỉnh pháp lý các hoạt động đầu tư nước ngoài

Các hoạt động đầu tư nước ngoài được tiến hành dưới hình thức lưu chuyển tư bản (vốn) từ quốc gia này sang quốc gia khác chủ yếu là nhằm mục đích kiếm lợi nhuận. Tư bản dịch chuyển là vốn đầu tư được biểu hiện đa dạng dưới hình thức ngoại tệ mạnh và nội tệ, tư liêu sản xuất, nhà xưởng, hàng hóa, đất đai… Các tài sản vô hình như sức lao động, công nghệ, phát minh-sáng chế, nhãn hiệu thương mại… cũng như các tài sản đặc biệt như cổ phiếu, trái phiếu, vàng bạc, đá quý…

Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với cả nước xuất khẩu vốn đầu tư, cũng như nước nhận đầu tư. Nhờ có đầu tư nước ngoài, quốc gia xuất vốn đầu tư sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, xây dựng được thị trường cung cấp ổn định nguyên liệu với giá hạ đồng thời mở rộng được sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Trong quan hệ với quốc gia nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển, giúp họ giải quyết những khó khăn về kinh tế-xã hội, như nạn thất nghiệp, lạm phát; tăng thu ngân sách quốc gia dưới hình thức các loại thuế; tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy phát triển kinh tế, thương mại; thông qua tiếp nhân đầu tư nước ngoài quốc gia nhận đầu” tư có điều kiện học tập kinh nghiêm quản lý-điều hành tiên tiến và ứng dụng khoa học-công nghê hiện đại của nước ngoài.

Để điều chỉnh các quan hê phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài, cộng đồng quốc tế đã sử dụng điều ước quốc tế đa phương và song phương là chủ yếu. Cho đến nay, chưa có điều ước quốc tế đa phương toàn cầu nào điều chỉnh toàn bộ các lĩnh vực của đầu tư nước ngoài. Hiến chương về các quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia có ghi nhận một số nguyên tắc vê đầu tư nước ngoài, như quyền của các quốc gia không bị ràng buộc phải ưu đãi đầu tư nước ngoài, quyền quốc hữu hóa. Tuy nhiên, Hiến chương không được nhiều nước tư bản phát triền ủng hộ và chỉ có giá trị khuyến nghị. Như vậy, trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, có vai trò điều chỉnh chủ yếu là các điều ước song phương và đa phương khu vực. Rất nhiều hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã được ký kết. Các nước xuất khẩu vốn lớn trên thế giới và hơn 80 quốc gia đang phát triển đã tham gia vào các hiệp định song phương thuộc loại này (Việt Nam đã ký kết trên 40 hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài). Các hiệp định song phương về đầu tư thường quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên hữu quan trên cơ sở có đi có lại. Thời kỳ xuất hiện nhiều điều ước quốc tế về đầu tư nước ngoài.. Nội dung pháp lý của chúng thường bao gồm các vấn đề cơ bản quan trọng sau đây:

– Quy định trình tự cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư mà họ quan tâm, bao gồm cả quy địntĩ khả năng không cho phép đầu tư ở một số lĩnh vực, khu vực đầu tư cụ thể.

– Quyết định chế độ pháp lý mà các bên hữu quan dành cho các nhà đầu tư cùa các bên – thành viên của hiệp định (theo quy định, các hiệp định này thường quy định chế độ đãi .ngộ quốc gia hoặc chế độ đãi ngô tối huệ quốc).

– Quy định các biện pháp bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm khi tiến hành hoạt động đầu tư, trong đó có các quy phạm không cho phép tiến hành trưng thu tài sản (vốn) đầu tư nước ngoài, còn trong trường hợp phải trưng thu thì được thực hiện như thế nào, với khoản đền bù ra sao. Ngoài ra, trong các biện pháp bảo đảm đầu tư nước ngoài, các hiệp định còn ghi nhận “điều khoản ổn định”, không cho phép áp dụng các văn bản pháp luật mới của quốc gia đối với đầu tư nước ngoài trong khoảng thời gian quy định (thường ỉà ba đến năm năm), nếu các vãn bản này có tác động tiêu cực đến đầu tư nước ngoài.

– Các quy định chung về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp xung đột vũ trang và biến động chính trị trong nước (bảo vệ đầu tư nước ngoài khỏi các rủi ro chính trị).

– Các quy định trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài.

Tuy các hiệp định song phương về đầu tư có hạn chế là chỉ ràng buộc hai quốc gia tham gia hiệp định nhưng qùá trình đàm phán, soạn thảo, thông qua, ký kết và phê chuẩn chúng đã góp phần đặt nền móng cho một khuôn khổ đầu tư quốc tế mà cộng đồng các quốc gia có quyền hy vọng cuối cùng sẽ thu hút được sự nhất trí của tất cả các nước trên thế giới.

Trong khuôn khổ của các điều ước quốc tế về đầu tư, cần phải kể đến các hiệp định đầu tư đa phương khu vực, đây là các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia cùng hê tư tưởng, quan điểm chính trị hoặc có sự gắn bó đặc biệt về kinh tế như:

– Các nước ở Tây Âu có Hiệp ước Rôma ngày 25/3/1957 lập ra các cộng đồng kinh tế châu Âu (hiện nay là Liên minh châu Âu với Hiệp ước Maastrich), quy định thực hiện tự do chuyển đổi tư bản giữa các nước thành viên với nhau và với nước thứ ba.

– Các nước ở Mỹ Latinh (Bôlivia, Chilê, Côlômbia, Êquađo, Pêru, En Xanvađo) có Hiệp định Cactatuna ngày 26/5/1969 lập ra thị trường chung Andin, thực hiên một chế độ chung trong đối xử với vốn đầu tư nước ngoài.

– Các nước Ả Rập có Công ước ngày 27/05/1971, lập ra công ty liên Ả Rập để bảo đảm đầu tư ký tại Côoet nhằm bảo đảm và khuyến khích đầu tư giữa các nước thành viên với nhau.

– Các nền kinh tế, thành viên của APEC – Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương cũng đưa ra được một số nguyên tắc liên quan đến đầu tư. Tuy nhiên, những nguyên tắc này không mang tính chất ràng buộc mà chỉ thể hiên mục tiêu tự do hóa đầu tư và thương mại của các nước này và theo đúng các nguyên tắc của WTO.

Trong phạm vi của WTO, các nước thành viên đã thông qua hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (viết tắt là TRIMS), quy định phạm vi áp dụng đối với các biện pháp đầu tư chỉ trong lĩnh vực có liên quan đến thương mại. Bên cạnh đó, trong quan hệ đầu tư nước ngoài, Cộng đồng quốc tế đã thông qua Công ước Xơ-un ngày 11/10/1985 (có hiệu lực năm 1988) thành lập cơ quan bảo đảm đầu tư đa phương nhằm mục đích khuyến khích đầu tư tư nhân ở các nước đang phát triển, bằng cách bảo đảm cho hoạt đông đầu tư tránh được các rủi ro đồng thòi truyền bá thông tin về các cơ hội đầu tư. Dưới sự bảo hộ của ngân hàng thế giới, Công ước về giải quyết tranh chấp đầu tư đã được soạn thảo và ký kết. Công ước đã thành lập trung tâm giải quyết các tranh chấp đầu tư quốc tế.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)