1. Kinh tế học Áo đưa ra hiểu biết mới về quảng cáo
Qua nỗ lực của Edward Chamberlin và Joan Robinson nhằm thay thế, bổ sung khái niệm cạnh tranh hoàn toàn, người Áo tiếp tục quan tâm bổ sung cho khái niệm này. Trong số các nhà kinh tế học Áo đương đại, chẳng hạn như Israel Kirzner, ông đánh giá việc phát biểu lại hệ thống Chamberlin-Robinson có sai lầm như sau:
“Lý thuyết mới không nhận thấy rằng đặc tính của thế giới thực đơn thuần là sự thể hiện của cạnh tranh doanh nghiệp, một quá trình trong đó người mua và người bán dò dẫm tìm cách khám phá các đường cong cung cầu của nhau. Lý thuyết mới đơn thuần định dạng cho cấu hình cân bằng mới – trên cơ sở như lý thuyết cạnh tranh hoàn toàn, dựa vào các đường cong cung cầu đã biết, nhất định, khác với lý thuyết trước đây chỉ trong hình dạng của những đường cong này. Trong tiến trình cố gắng giải thích hiện tượng thị trường như thế như dị biệt hóa chất lượng, quảng cáo, thị trường trong đó một ít nhà sản xuất phải nhận thấy, lý thuyết mới dẫn đến kết luận vốn hiểu rất lệch lạc tầm quan trọng của những hiện tượng này”. (Competition and Entrepreneurship, trang 29).
Cơ sở khẳng định của Kirzner cho rằng lý thuyết cạnh tranh độc quyền loại trừ quá trình khám phá. Không hề có sự nhận biết nhu cầu đối với nhà sản xuất và người tiêu dùng để tìm thấy những sản phẩm và thay đổi ấy vốn được yêu cầu nhiều nhất. Cứ cho rằng nên bổ sung như lý thuyết, cứ giả định đã biết trước nhu cầu thị trường. Điểm yếu thứ hai do các tác giả khác lưu ý ngoài các tác giả Áo ra là lý thuyết không đưa ra lời giải thích bằng cách nào dị biệt hóa sản phẩm lại tồn tại dai dẳng trong sự cân bằng, nghĩa là tại sao các doanh nghiệp kình địch không thể sao chép thành công những thay đổi sản phẩm ấy.
Nói chung, kinh tế học Áo đưa ra hiểu biết mới về quảng cáo, chứng tỏ là một vấn đề có phần lúng túng trong lý thuyết kinh tế truyền thống. Nếu người tiêu dùng luôn có thông tin đầy đủ về sản phẩm có sẵn, thì không có giải thích hợp lý nào về sự tồn tại dai dẳng của quảng cáo. Thật ra, điều này có vẻ lãng phí. Đối với Chamberlin và những người khác, quảng cáo là một cách chuyển tải thông tin đến người tiêu dùng về một sản phẩm mà họ biết đã tồn tại. Nhưng sự thuyết phục đơn thuần là một vấn đề khác. Hầu hết các nhà kinh tế đều phản đối việc quảng cáo như kỹ thuật chào hàng cưỡng bách không biết xấu hổ. Suy nghĩ Áo chủ yếu xuất phát từ quan điểm quy ước. Người tiêu dùng luôn không biết sản phẩm nào đang có sẵn, và thậm chí nếu biết, họ thường không am hiểu thuộc tính sản phẩm. Do đó, người bán có vai trò thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Điều quan trọng không phải liệu quảng cáo có mang tính thông tin thuần túy, thuyết phục thuần túy hay là sự kết hợp của cả hai hay không, vấn đề là phải lưu ý đến sản phẩm, vì chỉ có như thế người tiêu dùng hành động giống như nhà doanh nghiệp – nghĩa là, sử dụng khả năng ra quyết định của mình.
2. Khái niệm độc quyền
Theo cách tương tự, khái niệm độc quyền của người Áo khác hẳn với quan điểm chính thống. Lý thuyết tiêu chuẩn theo truyền thống cho rằng đường cong nhu cầu của nhà độc quyền đã biết và khả năng tăng giá của anh ta và tăng lợi nhuận phụ thuộc vào hình dạng của đường cong ấy. Không phải lúc nào cũng giải thích được nhà độc quyền làm thế nào biết được đường cong cầu, tại sao họ là những nhà sản xuất đơn nhất, và tại sao mối đe dọa cạnh tranh của các doanh nghiệp khác không ngăn cản họ hành động khi họ muốn. Tiếp cận Áo phải đối mặt với những câu hỏi này, trong đó sự hiện diện của độc quyền không gì khác là ngăn cản nhu cầu khám phá thị trường. Cho dù một doanh nghiệp có mang tính độc quyền hay không, phải khám phá người tiêu dùng muốn sản phẩm gì và họ sẵn sàng bỏ tiền ra mua sản phẩm nào. Vì thế, nhà độc quyền là chủ đề của cùng quá trình thị trường cạnh tranh như các doanh nghiệp khác. Vả lại, nhà độc quyền phải cạnh tranh với nhà sản xuất các sản phẩm mới tốt hơn ngay cả khi họ không gặp cạnh tranh từ các nhà sản xuất sản phẩm cùng loại. Do đó điều sai lầm là mô tả đặc điểm độc quyền như “vắng mặt cạnh tranh”. Mà đúng ra độc quyền ngụ ý là rào cản cho sự tham gia. Kirzner lưu ý:
“Sự tồn tại cạnh tranh kình địch không đòi hỏi phải có nhiều người mua và bán nhưng chỉ đơn thuần đòi hỏi tự do tham gia. Cạnh tranh đặt áp lực lên những người tham gia thị trường buộc họ phải khám phá cơ hội ở đâu, và cơ hội tốt hơn ra sao trong thị trường khi mọi người chưa biết. Quá trình thị trường cạnh tranh xảy ra vì sự cân bằng chưa đạt đến. Quá trình này bị cản trở bất cứ khi nào khi rào cản phí thị trường ngăn cản sự tham gia của những đối thủ tiềm năng”. {The Perils of Regulation, trang 9).
Một cách đánh giá hoạt động của quá trình thị trường là bằng cách ôn lại tranh luận tính toán xã hội chủ nghĩa diễn ra trong một giai đoạn khá dài giữa một bên là Mises và Hayek và bên kia là Oskar Lange và H. D. Dickinson. Mises và Hayek minh họa vô số khó khăn mà những nhà hoạch định xã hội chủ nghĩa phải đối mặt khi cố gắng giành giật kết quả thị trường nhưng không có thị trường thực tế đang hoạt động. Lange và Dickinson, sau này có thêm Abba Lerner cùng nhiều người khác gia nhập, cho rằng sự phân phối hiệu quả có thể đạt được trong chủ nghĩa xã hội với điều kiện các nhà quản lý xã hội chủ nghĩa áp dụng nguyên tắc quy định chặt chẽ khi ra quyết định.
3. Israel Meir Kirzner
Israel Meir Kirzner (sinh ngày 13 tháng 2 1930) là một người Mỹ. Ông sinh ra ở London, là nhà kinh tế học có mối liên quan chặt chẽ với trường phái Áo. Ông hiện là nhà kinh tế học người Áo cao cấp nhất còn sống.
Là con trai của một giáo sĩ Do Thái nổi tiếng và người theo thuyết Talmudist, Kirzner sinh ra ở London và đến Hoa Kỳ bằng con đường đến Nam Phi.
Sau khi theo học tại Đại học Cape Town, Nam Phi năm 1947-1948 và với Chương trình Đối ngoại của Đại học Luân Đôn năm 1950-1951, Kirzner nhận bằng cử nhân kiêm cử nhân của trường Cao đẳng Brooklyn năm 1954, bằng MBA năm 1955 và bằng Tiến sĩ năm 1957 từ Đại học New York, nơi ông theo học Ludwig von Mises.
Kirzner cũng là một giáo sĩ Do Thái đã được phong chức và học giả Talmudic và là giáo sĩ Do Thái của giáo đoàn từng do cha ông đứng đầu ở Brooklyn, New York. Ông là một trong những đệ tử nổi tiếng nhất của Giáo sĩ Isaac Hutner, hiệu trưởng quá cố của Giáo sĩ Yeshiva Chaim Berlin, nơi ông đã theo học nhiều năm trong cùng những năm ông được đào tạo về học thuật. Kirzner là người có thẩm quyền về các bài viết của Hutner và là một trong số ít biên tập viên chính thức của tất cả các nguồn mà Hutner trích dẫn.
4. Kinh tế học
Kirzner là giáo sư kinh tế danh dự tại Đại học New York và là người có thẩm quyền hàng đầu về tư duy và phương pháp luận của Ludwig von Mises trong kinh tế học. Nghiên cứu của Kirzner về kinh tế học khởi nghiệp cũng được công nhận rộng rãi. Cuốn sách của ông, Cạnh tranh và Doanh nhân chỉ trích lý thuyết tân cổ điển vì quá bận tâm đến mô hình cạnh tranh hoàn hảo, mà bỏ quên vai trò quan trọng của doanh nhân trong đời sống kinh tế. Công trình của Kirzner tích hợp hành động kinh doanh vào kinh tế học tân cổ điển đã được chấp nhận rộng rãi hơn gần như bất kỳ ý tưởng nào khác của Áo vào cuối thế kỷ XX.
Năm 2006, Kirzner nhận được Giải thưởng Toàn cầu về Nghiên cứu Tinh thần Doanh nhân “vì đã phát triển lý thuyết kinh tế nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh nhân đối với tăng trưởng kinh tế và hoạt động của quá trình tư bản”. Trong khi các ý tưởng của Kirzner đã ảnh hưởng rất nhiều đến lĩnh vực nghiên cứu về khởi nghiệp, ông chủ yếu gắn liền với quan điểm khám phá cơ hội. Tuy nhiên, đọc kỹ công trình của Kirzner sẽ cho thấy rằng công việc của ông về tinh thần kinh doanh có thể được chia thành hai nhóm, một bên tập trung vào khám phá và một bên là sáng tạo.
Giống như Joseph Schumpeter, công việc của Kirzner có thể được chia thành Kirzner Mark I và Kirzner Mark II. Công việc chính của Kirzner là kinh tế học của tri thức và tinh thần kinh doanh và đạo đức của thị trường. Kirzner đã nói rằng ông đồng ý với tuyên bố của Roger Garrison rằng công việc của Kirzner là trung bình, trái ngược với quan điểm gần đây, cực đoan hơn của một số nhà kinh tế học của Trường phái Áo, những người phủ nhận sự phù hợp của cân bằng thị trường.
Đại học Francisco Marroquín đã cấp cho ông Bằng Tiến sĩ Danh dự vì những đóng góp của ông cho lý thuyết kinh tế. Các Bằng Tiến sĩ Danh dự tại Universidad Francisco Marroquín UFM cũng đặt tên cho Trung tâm Doanh nhân Kirzner của mình để vinh danh ông.
5. Ấn phẩm
Quỹ Liberty hiện đang xuất bản các Tác phẩm được sưu tầm của Israel Kizner thành mười tập dưới sự giám sát của Peter Boettke và Frederic Sautet. Tập đầu tiên, Quan điểm kinh tế, ra mắt vào tháng 12 năm 2009, tập thứ hai, Lý thuyết thị trường và hệ thống giá cả, vào tháng 5 năm 2011 và tập thứ ba, Các tiểu luận về vốn, vào tháng 6 năm 2012. Tập thứ tư, Cạnh tranh và tinh thần kinh doanh dự kiến ra mắt vào năm 2013, cũng là năm kỷ niệm 40 năm cuốn sách được xuất bản.
Một số công trình của ông về kinh tế học:
– Lý thuyết thị trường và hệ thống giá cả. Van Nostrand, 1963.
– Một bài luận về tư bản . AM Kelley, năm 1966.
– Cạnh tranh và Khởi nghiệp . Chicago, 1973. ISBN 0226437760.
– Nhận thức, Cơ hội và Lợi nhuận: Các nghiên cứu về Lý thuyết Khởi nghiệp . Chicago, năm 1973.
– Quan điểm kinh tế: Một tiểu luận trong lịch sử tư tưởng kinh tế. Thành phố Kansas: Sheed and Ward, 1976.
– Khám phá và Quá trình Tư bản . Nhà xuất bản Đại học Chicag , 1985. ISBN 0226437779.
– Khám phá, Chủ nghĩa Tư bản và Công lý Phân tán . Basil Blackwell, 1989.
– Ý nghĩa của quá trình thị trường . Routledge, 1992. ISBN 0415137381 / ISBN 0415068665.
– Động lực của Thị trường . Routledge, 2000. ISBN 0415228239
LUẬT MINH kHUÊ (Sưu tầm)