1. Thừa kế theo quy định của pháp luật la mã

Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.

 

Thời điểm mở thừa kế: Là thời điểm người có tài sản chết. Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định khối di sản của người chết để lại; xác định sự gia tăng hay giảm sút di sản để xác định trách nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi kiện (3 năm).

Di sản thừa kế: Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết và các quyền tài sản của người chết chưa thực hiện (quyền thừa kế, quyền đòi nợ). Một vấn đề rất quan trọng là theo luật La Mã, các nghĩa vụ về tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế. Ví dụ A chết để lại tài sản là 100 aosơ (as), A nợ B 30 aosơ, vậy di sản thừa kế của A là: 100 – 30 = 70 aosơ.

 

Người thừa kế: Là những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải được sinh ra sau khi người để lại tài sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII bảng quy định: “Tôi được biết rằng khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi chồng chết thì (ở đó) có việc dường như người đàn bà có thai sau khi chồng chết, bởi vì Ủy ban mười người đã ghi rằng con người sinh ra vào tháng thứ mười chứ không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”. Người thừa kế có quyền sở hữu tài sản thừa kế, có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết trong phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.

 

Thừa kế theo di chúc (testato):Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”.

 

Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân thủ đầy đủ các điều kiện khác.Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người được chỉ định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến 50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).

Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế là Semel heres, semper heres – người được chỉ định là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người thừa kế. Điều này có nghĩa là luật pháp chỉ công nhận di chúc có điều kiện phát sinh, không công nhận di chúc có điều kiện đình chỉ. n đình chỉ (chấm dứt) trái với nguyên tắc “người thừa kế là vĩnh viễn”.Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước có quy định được xuất phát từ luật La Mã là việc quy định những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi là kỷ phần bắt buộc). 

2. Di sản không có người thừa kế

Khái niệm: Trường hợp thừa kế mà không có người thừa kế hoặc có nhưng họ không nhận thừa kế theo di chúc và theo pháp luật . Di sản trở thành không có người nhận thừa kế.

 Di sản không có người nhận thừa kế qua các thời kì

– Thời kì cổ đại: theo luật thừa kế, người nào muốn nhận di sản đó họ sẽ có quyền sở hữu đối với tài sản của người chết.

– Thời kì đế chế: di sản không có người thừa kế thuộc về Nhà nước.

– Thời kì quân chủ chuyên chế: pháp luật quy định di sản không có người nhận thừa kế thuộc chính quyền sở tại, nhà thờ, tu viện,…( Pháp luật ưu tiên những người làm việc trong các tổ chức này được hưởng di sản vô thừa nhận).

Theo Luật Dân sự năm 2015 quy định về di sản không có người thừa kế như sau

Theo Điều 613 Bộ luật Dân sự hiện hành, người thừa kế là:

– Cá nhân còn sống tại thời điểm mở thừa kế;

– Cá nhân đã thành thai trước khi người để lại di sản chết và còn sống sau thời điểm mở thừa kế;

– Phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế nếu không phải cá nhân hưởng thừa kế theo di chúc.

Như vậy, chỉ trong các trường hợp sau đây, di sản thừa kế mới không có người thừa kế:

* Theo di chúc

Những trường hợp không có người hưởng di sản theo di chúc gồm:

– Di chúc không hợp pháp;

– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

– Cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

– Người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản;

– Trong di chúc, người để lại di sản không chỉ định người thừa kế …

* Theo pháp luật

Những trường hợp không có người hưởng di sản theo pháp luật như không có người thừa kế theo các hàng thừa kế do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản…

Theo đó, để giải quyết tình trạng này, Điều 622 Bộ luật Dân sự có quy định:

Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước

Như vậy, trong các trường hợp không có người thừa kế nhận di sản thì phần di sản thừa kế này sẽ thuộc về Nhà nước sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ của người để lại thừa kế.

3. Nhận thừa kế Luật la mã

Đối với một số người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc, việc xác lập quyền đối với di sản là đương nhiên; một số khác lại có thể lựa chọn giữa nhận và không nhận di sản.

3.1 Xác lập đương nhiên

 

Người thừa kế bắt buộc: 

-Những người sui heredes , như đã nói, việc mở thừa kế có tác dụng chuyển giao lập tức di sản cho những người này: họ bắt buộc phải nhận di sản mà không có sự lựa chọn nào khác (người thừa kế bắt buộc). 

–  Những nô lệ được lập thành người thừa kế theo di chúc và được giải phóng theo một quyết định cũng trong di chúc đó. Người có một di sản mất khả năng thanh toán, khi lập một nô lệ làm thừa kế theo di chúc, sẽ tránh được sự ô nhục do di sản bị kê biên, bởi người nô lệ , với tư cách là người thừa kế bắt buộc sẽ đứng ra lãnh nợ.

3.2 Xác lập lựa chọn 

 

Tất cả những ai không phải là người thừa kế bắt buộc mà được gọi để nhận di sản đều có quyền lựa chọn giữa nhận và không nhận.

a, Hình thức nhận di sản

 

Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.

 

– Nhận di sản bởi người thừa kế dân sự: việc chấp nhận di sản phải được biểu lộ rõ ràng. Luật cổ còn đòi hỏi việc chấp nhận di sản theo những thể thức long trọng : người được gọi phải tuyên bố trước nhân chứng :”tôi chấp nhận và tôi làm điều đó sau khi đã cân nhắc “. Thông thường người có di sản sẽ ấn định bằng di chúc thời hạn 100 ngày để người thừa kế công bố nhận . Từ thời cổ điển, một lời khai nhận di sản có nội dung cho thấy rõ ý chí của đương sự đã đủ để việc nhận di sản có hiệu lực , thậm chí có thể mặc nhiên khi người thừa kế được gọi thực hiện một hành vi cho thấy ý chí muốn nhận di sản , ví dụ: liện nhũng người mắc nợ đối với người chết, tiến hành bán một tài sản thuộc di sản

–  Nhận di sản bởi thừa kế tư pháp: Người thừa kế tư pháp luôn luôn phải yêu cầu được tiếp quản di sản và đơn yêu cầu có giá trị như một lời tuyên bố chấp nhận di sản. Luật quy định rằng, người đòi quyền lợi trong di sản phải nộp đơn yêu cầu được tiếp quản di sản trong thời hạn 100 ngày; hết thời hạn đó , quyền yêu cầu được tiếp quản di sản sẽ được thừa nhận cho người có quyền lợi thấp hơn.

b, Nội dung chấp nhận di sản

chấp nhận không điều kiện: việc chấp nhận di sản có ý nghĩa như một lời cam kết của cá nhân người thừa kế về việc tiếp tục thực hiện các quyền nghĩa vụ do người chết để lại . Bởi vậy , người thừa kế chấp nhận di sản phải là người có năng lực thực hiện nghĩa vụ tài sản. Người thừa kế có năng lực pháp luật mà chưa đủ khả năng nhận thức theo luật thì có thể chấp nhận di sản dưới sự cho phép của người giám hộ; người thừa kế không có năng lực pháp luật chấp nhận di sản theo lệnh của người chủ gia đình của mình.
c, Thời điểm chấp nhận di sản

Nguyên tắc:  Nếu người lập di chúc có ấn định một thời hạn để nhận di sản , thì người thừa kế phải tôn trọng thời hạn đó. Nếu không có một thời hạn cụ thể, thì người thừa kế có thể tuyên bố nhận di sản chậm nhất trước khi chết. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, người thừa kế có thể bị buộc phải bày tỏ ý chí sớm hơn.

Ví dụ như: trường hợp có yêu cầu của chủ nợ: Các chủ nợ của di sản thường yêu cầu pháp quan đốc thúc người thừa kế sớm quyết định giữa nhận hay không nhận di sản, lúc đầu hết thời hạn thì coi như từ chối di sản, đến thời Justinien người thừa kế mà không quyết định thì coi như đã chấp nhận di sản.

Trường hợp di sản vắng chủ: giữa thời điểm mở thừa kế và thời điểm nguoif thừa kế nhận di sản, các tài sản thuộc di sản coi như trong tình trạng vắng chủ. Luật cổ đại nói rằng vật vắng chủ là vật vô chủ (res nullius) và người thứ 3 chiếm giữ tài sản liên tục , thì sau 1 năm sẽ trở thành chủ sở hữu với tư cachs là người thừa kế di sản vắng chủ. Tuy nhiên , đến thời cổ điển , giải pháp này bị loại bỏ : di sản được coi như tổng thể 1 tài sản có và nợ thuộc về người thừa kế từ thời điểm mở thừa kế

4. Hậu quả của việc nhận thừa kế

Người thừa kế trở thành chủ sở hữu tài sản mà người chết có quyền sở hữu, trở thành người chiếm hữu tài sản mà người chết có quyền chiếm hữu,  quyền và nghĩa vụ của người chết được chuyển giao chọn cho người thừa kế

–  Trước thời Jstinian, người thừa kế chỉ còn cách khước từ tài sản thừa kế để tránh cho anh ta món nợ của người đã chết

–  Thời Justinian, người thừa kế có thể kiểm kê tài sản thừa kế (có xác nhận của công chúng, sự tham gia của chủ nợ người quá cố) để hạn chế trách nghiệm của anh ta theo mức tài sản anh ta được hưởng , ưu tiên này được gọi là Benificium inventarii-ưu tiên tách tài sản. Benificium inventarii có ý nghĩa thực tiễn trong trường hợp di sản không đủ để trả nợ cho người chết.

Khi  tài sản thừa kế nhiều hơn tài sản người thừa kế và chủ nợ của người thừa kế có dịp thu nợ. Nếu món nợ của người thừa kế quá nhiều thì chủ nợ của người quá cố nhiều khi cạnh tranh với chủ nợ của người thừa kế.Để bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ đối với tài sản thừa kế mà con nợ đã có , áp dụng Benificium separationis (ưu tiên tách tài sản), tách di sản khỏi tài sản của người thừa kế. Di sản sẽ được trả cho chủ nợ của người chết, sau đó mới phân cho các legat (những người được hưởng một phần nào đó trong di sản hay lợi tức từ tài sản thừa kế theo di chúc), phần còn lại mới dùng để trả cho chủ nợ của người thừa kế.

Việc nhận thừa kế có hậu quả của nó vì nó có thể : chấm dứt trách nghiệm chung giữa người chết và người thừa kế, vì lúc này , sau khi nhận thừa kế, người thừa kế vừa là chủ nợ vừa là người vay nợ; chấm dứt các loại Servitus ( sử dụng tài sản người khác) vì có trường hợp một người vừa có quyền sở hữu vừa có Servitus.

 

 

Ngoài ra, nếu còn vấn đề vướng mắc hoặc băn khoăn về những nội dung trên Quý khách hàng có thể liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.0191 để được giải đáp thêm.

Trân trọng./

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN Group