Các cơ sở kinh doanh có thể bán hoặc mua tùy vào nhu cầu về nguyên tắc, một cơ sở kinh doanh có thể mua bán bằng miệng, nhưng thường là cần có hợp đồng viết hợp đồng đó có thể là công chứng thư họặc tư chứng thư
1. Các điều ghi chú pháp luật bắt buộc phải có trong hợp đồng bán
Hợp đồng bán không những phải có những chỉ dẫn rõ ràng về chi tiết của cơ sở kinh doanh, giá cả (có phân tách các nhân tố hữu hình và các loại hàng hóa), mà còn phải ghi chú một số điểm để người mua biết được thực trạng và giá trị của cơ sở đó:
– Tên người bán trước, ngày tháng và tính chất của hợp đồng mua, giá đã thanh toán
– Doanh số và lợi nhuận thực hiện được trong 3 năm trước;
– Việc thuê nhà xưởng (ngày, tháng, thời hạn thuê, tên và địa chỉ người cho thuê)
– Tình trạng các ưu tiên phải chi trả và các thế chấp của cơ sở;
Người mua phải được xem các sổ sách trong 3 năm trước đó, đã được các bên đương sự thị thực.
Tất cả các điều trên đây phải ghi không những trong việc bán đứt, mà cả trong bản hứa bán, nếu có (gọi là thỏa ước).
Chế tài: Người mua có thể xin hủy bỏ việc bán nếu thiếu một điểm do luật bắt buộc phải có; đơn xin hủy bỏ cần được làm trong vòng 1 năm. Tuy nhiên tòa án không bắt buộc phải ra lệnh hủy bỏ; tòa án sẽ xem xét có phải vì thiếu ghi chú một hay nhiều điểm, mà người mua đã bị nhầm lẫn về giá trị của cơ sỏ kinh doanh hay không.
Không nên lẫn lộn việc bỏ sót với việc ghi sai. Nếu ghi sai, người ta có thể kiện vì có khuyết tật ẩn . Theo điều 13, nếu có ghi sai,người mua có thể hủy bỏ việc mua, hoặc đòi giảm giá tiền. Còn việc bỏ sót không ghi chú thì việc bán có thể bị hay không bị hủy bỏ.
Người mua một cơ sở kinh doanh bị nhầm vì hợp đồng ghi có điều bỏ sót, có thể chọn giữa việc xin hủy hợp đồng vì bị lừa dối theo luật thường, hoặc kiện theo Luật năm 1935. Thời hạn hai cách kiện có khác nhau: 1 năm nếu kiện theo điều (12, và 5 năm nếu kiện theo điều 11 Bộ luật dân sự)
Không nên lẫn lộn việc thuê, mua cơ sở kinh doanh có các nhân tố nói trên với việc thuê nhà xưởng. Thực vậy, nhiều khi một thương nhân, vì lý do nhất định, không kinh doanh nữa mà chỉ bản quyền được thuê nhà xưỏng của mình (người ta gọi độ là pas- de – porte). Người mua nhà xưởng có thể mở ở đó một ngành nghề theo ý thích của mình nhưng cần tính đến các hạn chế có thể xảy ra do các điều khoản đã ghi trong hợp đồng nguyên thủy, trừ phi có thương lượng với người chủ sở hữu ngôi nhà để được miễn thi hành một vài điều khoản.
Luật ngày 2-1-1970 quy định các điều kiện hành nghề của các đại lý kinh doanh trong việc bán và mua các cơ sở kinh doanh.
2. Đăng báo, công bố
Những người chủ nợ của người bán mà cơ sở kinh doanh thường là yếu tố cơ bản của gia sản người đó phải được thông báo về việc bán để có thể được trả nợ trước khi tài sản cầm cố bị bán, vì vậy cần có:
1. Công bố ở địa phương một trích lục trên báo công bố các thông báo pháp định ở địa phương nơi bán trong thời hạn 15 ngày, và đăng lại lần thứ 2 từ đến 15 ngày sau
2. Công bố chúng 8 ngày sau việc quảng cáo ở địa phương trong “tờ tin tức chính về các thông báo thương mại”.
2.1. Các quyền của người chủ nợ
– Các chủ nợ có thể phản kháng việc người mua trực tiếp trả tiền cho người bán bằng cách ngăn cản người đó không được đưa tiền cho người bán.
Việc phản kháng này phải làm chậm nhất trong thời hạn 10 ngày sau khi công bố lần thứ 2 ở tờ báo công bố các thông báo pháp định, do cán bộ chấp hành án của tòa án tống đạt cho người mua tại nơi ở của người này. Bản tống đạt cần ghi số tiền nợ của chủ nợ và lý do nợ. .
Nếu thấy việc ngăn cản này không chính đáng, người bán có thể xin chánh án tòa án thẩm quyền chung xử cấp thẩm bác bỏ việc ngăn cản đó.
– Các chủ nợ còn có thể đòi tăng lên một phần nếu thấy giá bán thấp qúa. Khi đó, cơ sở kinh doanh phải đưa ra bán đấu giá, và nếu không có ai mua thi người đòi tăng giá được công nhận là người mua mỗi giá ghi trong văn bản cộng thêm một phần sau.
Các quyền nói trên là một lợi ích đối với các chủ nợ không có vật thế nợ, còn các chủ nợ có thế chấp làm đảm bảo thì họ đã có quyền ưu tiên được trả nợ và có quyền theo đuổi để đòi khoản nợ đến cùng.
3. Hệ quả của việc bán cơ sở kinh doanh
Về nguyên tắc, chỉ bán các nhân tố vô hình (khách hàng đã có và khách hàng tương lai, tên cơ sở, biển hiệu, quyền được thuê nhà xưởng); nhưng cũng có thể bán các trang thiết bị và hàng hóa; khi đó cần chỉ rõ giá riêng biệt cho từng loại động sản hữu hình)
Việc bán cơ sở kinh doanh làm phát sinh một số quyền và nghĩa vụ cho hai bên đương sự
3.1. Nghĩa vụ của người bán
. Người bán phải giao cơ sở cho người mua, tức là làm cho người mua được hưởng dụng các nhân tố đã bán, và nhằm mục đích đó, không những phải để cho người mua được thực sự chiếm hữu các nhân tố đó mà còn phải thực hiến các hành vi pháp lý cần thiết, như việc nhượng lại quyền được thuê nhà xựởng.
Người bán phải đảm bảo không gây cho người mua bị khó khăn phiền nhiễu, nhất là không được mở một cơ sở kinh doanh tương tự cạnh tranh với người mua và gây thiệt hại cho người mua.
Để tránh khó khăn, nhiều khi hợp đồng bán có một điều khoản quy định rõ các nghĩa vụ của người bán điều khoản cấm mở cửa hàng tương tự là hợp pháp với điều kiện hạn chế nó trong thời gian và không gian. Ví dụ cấm mua hay quan tâm đến một việc kinh doanh cùng tính chất trong 5 năm tiếp theo và trong phạm vi 3 km. Người mua có thể xin hủy bỏ việc bán nếu phát hiện các khuyết tật ẩn.
3.2. Nghĩa vụ của người mua.
Người mua phải trả tiền đúng thời hạn đã định.
Nói chung, lúc đầu phải trả một phần giá mua bằng tiền mặt, sau đó số còn lại sẽ trả dần làm nhiều kỳ; số tiền trả theo kỳ hạn thường thường bằng chi phiếu do người mua ký.
Chế tài:
Nếu đến hạn đã định, người mua không trả toàn bộ hay một phần giá mua, thì người bán, để đảm bảo được trả nợ, có quyền được ưu tiên trả nợ và quyền được xin hủy hợp đồng.
Điều 1840 của Bộ luật thuế quy định hợp đồng nào có mục đích giấu một phần giá bán để gian lậu thuế là hợp đồng vô hiệu.
Nhưng đã có bản án việc vô hiệu đó chỉ nhằm vào các hợp đồng bí mật, còn hợp đồng công khai vẫn có giá trị. Ví dụ các đương sự đã ghi trong hợp đồng giá bán cơ sở kinh doanh là 10.000 phrăng trong khi giá thực sự là 12.000 phrăng thì người mua chỉ phải trả 10.000 phrặng, nhưng còn bản thân hợp đồng cùng với các thể thức khác vẫn có giá trị.
3.3. Quyền ưu tiên của người bán.
Đó là quyền đương nhiên không cần phải ghi trong hợp đồng, nhưng trong trường hợp này, quyền ưu tiên đó chỉ liên quan đến các nhân tố vô hình, không liên quan đến hàng hóa. Nhưng để người bán có thể sử dụng quyền ưu tiên đó khi người mua không trả tiền, thì người bán phải đăng ký quyền này tại Phòng lục sự Tòa án thương mại trong hạn 15 ngàyy kể từ ngày bán.
Quyền ưu tiên này tạo cho người bán:
a) Quyền được viện dẫn, tức là trong trường hợp cơ sở đó lại được đem bán lại thì người bán đầu tiên được trả tiền ưu tiên trước các chủ nợ thưòng không có vật thế chấp và trước cả các chủ nợ ưu tiên khác.
b) Quyền được theo vật thế chấp, tức là trong trưòng hợp cơ sở kinh doanh được đem bán lại mà người bán trước chưa được trả tiền, thì người này có quyền đem bán lần thứ hai cơ sở lấy ra từ trong gia sản của người mua lần thứ hai.
Việc kiện đòi hủy hợp đồng.
Người bán chưa nhận được tiền mua có thể đề nghị với Tòa án thương mại ra lệnh hủy hợp đồng bán, do đó, cơ sở kinh doanh lại trở về thuộc quyền sở hữu của người bán.Tuy nhiên, quyền xin hủy bỏ hợp đồng phải được ghi chú thành một thứ quyền ưu tiên tại Phòng lục sự tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ký bán. Những người mua không chịu trách nhiệm về các món nợ do người bán đã mắc trong khi khai thác các cơ sở kinh doanh của mình.Người mua chỉ chịu trách nhiệm về các món nợ nếu hợp “ đồng bán có ghi rõ như vậy; điều khoản này có giá trị đối với hai bên mua bán, nhưng không có giá trị đối với các chú nợ.
Thẩm quyền.
Việc mua một cơ sở kinh doanh đế hoạt động kính doanh là một hành vi thương mại, nên khi có tranh chấp, Tòa án thương mại sẽ có thẩm quyền xét xử.
Các thể thức về việc bán một cơ sở kinh doanh rất phức tạp và có các thời hạn cần phải tôn trọng. Xin nêu tóm tắt trong bảng sau đây:
Đi đến ký thỏa ước :
– Kiểm tra doanh thu và lợi nhuận kinh doanh trong 3 năm trước khi bán cơ sở kinh doanh, và phải ghi vào thỏa ước, nếu không thì thỏa ước vô giá trị;
– Ngày, tháng và giá việc bán trước;
– Ghi rõ đã đọc hợp đồng thuê nhà xưởng;
– Người bán chỉ dẫn các ghi chú về cơ sở kinh doanh sau khi đã soát kỹ;
– Ký bản thỏa ước, ấn định các điều kiện của việc bán và đến tiếp nhận cơ sở kinh doanh;
– Kiểm kê các đồ đạc và dụng cụ.
Mười ngày sau khi kỷ thỏa ưỡc:
Bên bán đi đăng kí thỏa ước .
Khi ký hợp đồng bán:
– Ký hợp đồng bán;
– Ký các chi phiếu, nếu có
– Ký giấy chuyển nhượng quyền được thuê nhà xưởng, và tống đạt cho người chủ nhà xưỏng;
– Soát lại bản kiểm kê thiết bị và đồ đạc;
– Thị thực bảng kế toán và kiểm kê các sổ sách;
– Người tạm giữ thu tiền, và trả tiền phí tổn cho người đã soạn thảo hợp đồng.
Khi tiếp nhận cơ sở kinh doanh
– Kiểm kê hàng hóa;
– Ghi lại giá các thứ hàng hóa giao cho người tạm giữ lập bảng ghi các khoản tiền thuê, tiền bảo hiểm, tiền môn bài đã do chủ cơ sở kinh doanh cũ tra v.v…
– Ghi các đồng hồ đo nước, khí đốt, giây nới, ghi số điện đã dùng đến ngày bàn giao;
– Chuyển tên các hợp đồng bảo hiểm;
– Người bán giới thiệu người kế tục mình với người chủ hữu nhà xưỏng hoặc người quản lý nhà xưởng
Trong 10 ngày sau khi bán:
Đăng ký các giấy tờ
Sau khi đặng ký:
– Khai báo với giám đốc thuế trực thụ về các điều kiện bán và lợi nhuận đã thu được cho đến ngày tiếp nhận cơ sở
– Trả thuế doanh thu;
– Nếu người bán cơ sở kinh doanh đã theo chế độ khóan doanh thu và lợi tức, thì người mua phải đề nghị với giám đốc thuế cho tiếp tục hưởng chế độ khoán;
– Xin chuyển tên người thuê bao giấy nới;
– Nếu cơ sở có sử dụng nhân viên, thì cần khai báo với “qũy đền bù và bảo hiểm xã hội”.
Trong 15 ngày kể từ ngày bán cơ sở kinh doanh:
– Đăng báo theo luật định lần đầu tiên;
– Đăng ký quyền ưu tiên của người bán và việc thế chấp,nếu không thì việc bán không có giá trị.
Saụ ngày thứ 15: Người mua đòi xuất trình các bản đăng ký các quyền tiên và thế chấp của người bán đối vối cơ sở kinh doanh.
Trong 2 tháng sau khi đăng báo lần thứ nhất:
Nộp Phòng lục sự Toà án thương mại để:
1. Đăng ký tên, tuổi người mua vào sổ đăng ký kinh doanh
2. Xóa gạch tên người bán trong sổ đăng ký thương mại và công ty của người bán;
3. Đăng tin trên tờ tin chính thức về đăng ký kinh doạnh (do lục sự thi hành).
Từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 15 sau lần đăng báo lần thứ nhất:
Đăng báo lần thứ 2 theo luật định.
Trong thời hạn 10 ngày từ ngày dang báo lần thử 2:
– Nhận các đơn phản kháng
– Thông báo giải quyết 20 ngày sau khi đăng báo lần thứ hai hết thời hạn xin tăng giá một phần sáu 15 ngày sau khi thông báo giải quyết
Hết thời hạn giải quyết việc xin tăng giá một phần sáu Các thể thức riêng biệt liên quan đến tính chất của cơ sở kinh doanh cần được tuân thủ, ví dụ như việc chuyển giao việc xin phép cơ quan hành chính đối với việc mở các quầy bán hàng giải khát v.v…
Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết , Hãy gọi ngay: 1900.0191 để đượcLuật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group
Công Ty Luật LVN Group xin cảm ơn!!