Việc ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 là một bước tiến bộ lớn của pháp luật dân sự Việt Nam. Trong đó, với việc xây dựng Phần thứ năm thay cho Phần thứ bảy của BLDS năm 2005, hệ thống quy phạm xung đột (QPXĐ) của tư pháp quốc tế (TPQT) Việt Nam đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong việc chọn luật điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (YTNN). Bài viết xoay quanh vấn đề về quy phạm xung đột và hệ thống quy phạm xung đột theo Bộ luật Dân sự 2015.
1. Quy phạm pháp luật xung đột là gì?
Quy phạm pháp luật xung đột là loại quy phạm không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia quan hệ cũng như các biện pháp chế tài kèm theo. mà chỉ xác định hệ thống pháp luật của quốc gia này hoặc hệ thống pháp luật của quốc gia khác được áp dụng để điều chỉnh quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài.
2. Phân loại quy phạm pháp luật xung đột
2.1. Căn cứ vào hình thức của quy phạm xung đột
Bao gồm: quy phạm xung đột một chiều và quy phạm xung đột chiều.
– Quy phạm xung đột một chiều: là quy phạm quy định bắt buộc phải áp dụng pháp luật của quốc gia đã ban hành ra quy phạm này.
– Quy phạm xung đột hai chiều: là quy phạm chỉ quy định những nguyên tắc chung xác định pháp luật của một quốc gia nào đó sẽ được áp dụng.
2.2. Căn cứ vào phần phạm vi của quy phạm xung đột
Gồm có: quy phạm xung đột về năng lực hành vi dân sư, về hợp đồng, về thừa kế, về hôn nhân và gia đình,…
Ví dụ: “Hình thức di chúc phải tuân theo pháp luật của nước nơi lập di chúc” (Khoản 2 Điều 768 BLDS Việt Nam năm 2005),…
2.3. Căn cứ vào tính chất của quy phạm xung đột
Gồm có: quy phạm xung đột mệnh lệnh và quy phạm xung đột tuỳ nghi.
– Quy phạm xung đột mệnh lệnh: là quy phạm quy định nhất thiết áp dụng một hệ thống pháp luật nào đó để điều chỉnh quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài mà không có quyền thoả thuận lựa chọn pháp luật để áp dụng.
Ví dụ: “Hợp đồng được giao kết tại Việt Nam và thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo pháp luật CHXHCN Việt Nam” (Khoản 1 Điều 769 BLDS 2015).
– Quy phạm xung đột tuỳ nghi: là quy phạm quy định cho phép các bên chủ thể có quyền lựa chọn hệ thống pháp luật của một quốc gia nào đó để điều chỉnh quan hệ mang tính chất dân sự có yếu tố nước ngoài.
2.4. Căn cứ vào nguồn chứa đựng quy phạm xung đột
Gồm có: quy phạm thông thường và quy phạm xung đột thống nhất.
– Quy phạm xung đột thông thường (quy phạm xung đột quốc gia): là loại quy phạm có trong các văn bản pháp luật, tập quán hoặc án lệ của quốc gia.
– Quy phạm xung đột thống nhất: là loại quy phạm có trong điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế do các quốc gia, tổ chức quốc tế thoả thuận thống nhất xây dựng, áp dụng.
3. Các loại quy phạm xung đột được xây dựng trong Bộ luật Dân sự 2015
Phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn sắp tới, sự tuân thủ các chuẩn mực pháp lý quốc tế cơ bản sẽ là yêu cầu xuyên suốt trong việc xây dựng các QPXĐ, Phần thứ năm BLDS năm 2015 đã tăng cường các QPXĐ hai bên và giảm số lượng các QPXĐ một bên. Cụ thể: Trong 25 điều luật của Phần thứ năm (từ Điều 663 – Điều 687) ngoài 9 điều luật liên quan đến các nguyên tắc chung (Điều 663 – Điều 671), 16 điều luật còn lại là các QPXĐ dùng để chọn luật áp dụng, trong đó chỉ có 6 khoản là QPXĐ một bên, ấn định luật áp dụng là luật Việt Nam, đối với các quan hệ pháp luật liên quan trực tiếp đến Việt Nam. Cụ thể: đoạn 2 khoản 2 Điều 672, khoản 2 Điều 673, khoản 3 Điều 674, khoản 2 Điều 675, khoản 3 Điều 676, khoản 5 Điều 683. Như vậy, so với Phần thứ bảy của BLDS năm 2005 thì số lượng QPXĐ một bên đã giảm đi rất nhiều. Điều này thể hiện sự thay đổi trong nhận thức của nhà làm luật, đưa các QPXĐ của Việt Nam phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của TPQT. Mặt khác, quan trọng hơn, làm cho pháp luật Việt Nam có nhiều cơ hội được áp dụng hơn trong thực tiễn bởi lẽ pháp luật Việt Nam do QPXĐ một bên dẫn chiếu đến chỉ có cơ hội áp dụng khi QPXĐ được sử dụng chọn luật là QPXĐ của Việt Nam. Trong khi đó, những QPXĐ một bên trong BLDS năm 2005 chỉ là QPXĐ của TPQT Việt Nam, chỉ có cơ hội áp dụng khi quan hệ dân sự có YTNN diễn ra tại Việt Nam hoặc tranh chấp liên quan đến quan hệ đó thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các QPXĐ của BLDS năm 2005 chưa có nhiều cơ hội áp dụng trong suốt mười năm tồn tại của mình.
Như vậy, với việc giảm QPXĐ một bên và tăng cường số lượng các QPXĐ hai bên, BLDS năm 2015 đã khắc phục hạn chế của BLDS năm 2005 về mặt kỹ thuật lập pháp, đồng thời tạo cơ hội cho pháp luật nội dung của Việt Nam được lựa chọn áp dụng. Điều này cũng góp phần làm cho TPQT Việt Nam phù hợp hơn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế.
4. Phạm vi điều chỉnh của quy phạm xung đột trong Bộ luật Dân sự năm 2015
Theo mô hình TPQT Việt Nam hiện nay, hệ thống các QPXĐ được xây dựng theo hướng không cần có một đạo luật riêng điều chỉnh về TPQT mà các QPXĐ sẽ được quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau, từ BLDS là luật chung đến các luật chuyên ngành như Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Thương mại, Luật Trọng tài thương mại… Chính vì vậy, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ sẽ khác nhau phụ thuộc vào văn bản pháp luật mà nó được chứa đựng trong đó. Với tư cách là văn bản pháp luật chung của TPQT Việt Nam, các QPXĐ chứa đựng trong BLDS năm 2015 cũng có phạm vi điều chỉnh riêng, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của BLDS năm 2015. Theo đó, phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ trong BLDS năm 2015 được xác định gồm hai nhóm chính là QPXĐ xác định pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân và QPXĐ xác định luật áp dụng đối với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân. Về cơ bản, BLDS năm 2015 đã xây dựng được một số lượng các QPXĐ đáng kể, khái quát được phần lớn các quan hệ dân sự có YTNN cơ bản nhất bởi những quan hệ đặc thù, cụ thể khác đã được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Phạm vi điều chỉnh của các QPXĐ tại Phần thứ năm đã bao trùm được phần lớn các quan hệ dân sự cơ bản được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật nội dung trong các phần trước của BLDS năm 2015. Mô hình của BLDS năm 2015 về cơ bản cũng tương đồng với giải pháp được lựa chọn ở nhiều quốc gia trên thế giới không ban hành đạo luật TPQT riêng như Pháp, Liên bang Nga…
4. Nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng
Nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng luôn là một trong những nguyên tắc cơ bản của TPQT để chọn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (YTNN). Nhằm tiếp tục ghi nhận và mở rộng việc áp dụng nguyên tắc chọn luật áp dụng, góp phần hoàn thiện hệ thống QPXĐ của TPQT Việt Nam, BLDS năm 2015 đã có nhiều tiến bộ quan trọng trong việc ghi nhận nguyên tắc này. Cụ thể:
– Về phạm vi các quan hệ được thoả thuận chọn luật áp dụng: BLDS năm 2005 chỉ quy định quyền thoả thuận chọn luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng có YTNN (Điều 769) và nguyên tắc này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 683 BLDS năm 2015. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc thoả thuận chọn luật đối với quan hệ thực hiện công việc không có uỷ quyền (Điều 686) và quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 687). Việc mở rộng phạm vi áp dụng của nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng là phù hợp với xu thế phát triển của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, bởi lẽ nguyên tắc này đã được ghi nhận rất rộng rãi trong pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đã ban hành đạo luật riêng về TPQT. So với TPQT các nước, phạm vi áp dụng nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng của BLDS năm 2015 vẫn còn hẹp bởi lẽ các bên chủ thể của nhiều quan hệ dân sự có YTNN khác đều có quyền thoả thuận chọn luật áp dụng như quan hệ thừa kế theo di chúc, quan hệ lao động,… Những quan hệ này, BLDS năm 2015 hoặc chưa quy định quyền thoả thuận chọn luật áp dụng hoặc không xây dựng QPXĐ chọn luật áp dụng và đây cũng là một trong những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống QPXĐ của TPQT Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
– Về phạm vi những vấn đề được thoả thuận lựa chọn pháp luật áp dụng trong trường hợp được chọn luật áp dụng: Điều 683 BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi các vấn đề trong quan hệ hợp đồng mà các bên được thoả thuận chọn luật áp dụng. Cụ thể: Theo quy định tại khoản 1 Điều 683: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Như vậy, phạm vi thoả thuận luật áp dụng là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến quan hệ hợp đồng trừ hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Điều này có nghĩa là nếu luật áp dụng cho hợp đồng là luật do các bên thoả thuận thì luật này cũng sẽ được sử dụng để xác định tính hợp pháp của hợp đồng. Nói gọn lại, Điều 683 BLDS năm 2015 đã được xây dựng theo hướng mở rộng tối đa phạm vi các bên chủ thể của hợp đồng được thoả thuận chọn luật áp dụng và điều này phù hợp với pháp luật quốc tế. Công ước Rome ngày 19/6/1980 về Luật áp dụng đối với những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng cũng như trong Điều 3 Nghị định Rome I (Regulation (EC) No 593/2008 of the European Parliament and of the Council of 17 June 2008 on the law applicable to contractual obligations), Nghị định điều chỉnh về nghĩa vụ hợp đồng tại Liên minh châu Âu thay thế Công ước Rome 1980 quy định:“Hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên thỏa thuận lựa chọn. Sự lựa chọn phải được thể hiện rõ ràng hoặc được chứng minh rõ ràng bởi các điều khoản trong hợp đồng hoặc tùy theo từng trường hợp cụ thể”. Tương tự, các công ước quốc tế đa phương được ban hành trong khuôn khổ của Hội nghị La Haye về TPQT như: Công ước La Haye ngày 15/6/1955 về Luật áp dụng đối với mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước La Haye ngày 14/3/1978 về Luật áp dụng cho chi nhánh, văn phòng đại diện, Công ước La Haye ngày 22/12/1986 về Luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng quy định tương tự. Điều 2 Công ước La Haye ngày 15/6/1955 quy định: “Hợp đồng mua bán chịu sự điều chỉnh bởi pháp luật của nước được chỉ định bởi các bên giao kết”. Luật hợp đồng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1999 cũng thừa nhận nguyên tắc thỏa thuận chọn luật áp dụng trong các hợp đồng quốc tế mà không giới hạn phạm vi thoả thuận lựa chọn.