1. Quyền dân tộc cơ bản là gì ?

Quyền dân tộc cơ bản đó là quyền không thể thiếu được đối với một dân tộc. Pháp luật quốc tế hiện đại ghi nhận quyền tồn tại và phát triển của một dân tộc không bị lệ thuộc, bị áp bức hoặc bị đô hộ bởi thế lực bên ngoài, quyển sống trong độc lập, tự do, bình đẳng, tự mình quyết định chế độ chí trị của mình, quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ, chữ viết của dân tộc mình trong giao lưu xã hội, trong giáo dục, trong thực thi công quyền, quyền được bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc.

Theo kinh nghiệm của Việt Nam, rút ra từ cuộc đấu tranh và từ đời sống thực tế, các quyền dân tộc cơ bản đó gồm bốn yếu tố cấu thành: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Bốn yếu tố này gắn kết với nhau một cách hữu cơ và hợp thành một thể thống nhất.

Điều 1 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định rõ nội dung của bốn yếu tố này. Các nội dung này cũng được khẳng định trong các văn kiện pháp lí quốc tế.

Bảo đảm quyền dân tộc cơ bản cho tất cả các dân tộc là yêu cầu quan trọng của pháp luật quốc tế hiện đại, là xu hướng của thời đại, là đường lối, chính sách tiến bộ của các nước. Việt Nam là nước có nhiều đóng góp để xây dựng và bảo vệ quyền dân tộc cơ bản. Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thừa nhận là hòn đá tảng của nền pháp luật quốc tế ngày nay.

=> Kết luận: Quyền dân tộc cơ bản là những quyền cơ bản nhất, đồng thời cũng là cơ sở tối thiểu để bảo đảm cho một dân tộc tồn tại và phát triển bình thường, là cơ sở để dân tộc đó thực hiện các quyền khác của mình.

Quyền dân tộc cơ bản thông thường bao gồm bốn yếu tố: độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

+ Độc lập: Tức là nhà nước đó phải tự định đoạt vận mệnh dân tộc mình mà không bị lệ thuộc vào sự can thiệp của nước ngoài nào; không có quân đội nước ngoài đóng trên lãnh thổ; đó phải là một nhà nước có chủ quyền, có nhân dân và có lãnh thổ riêng.

+ Có chủ quyền: Nhà nước có chủ quyền là nhà nước có quyền tự quyết riêng về đối nội, đối ngoại, chiến tranh – hòa bình của quốc gia mình.

+ Thống nhất: Thống nhất ở đây là thống nhất về tổ chức chính quyền nhân dân từ trung ương đến địa phương, về hệ thống pháp luật, về lãnh thổ,…

+ Toàn vẹn lãnh thổ: một nhà nước có chủ quyền, thống nhất không bị chia cắt về lãnh thổ: đất liền, các hải đảo, vùng biển, vùng trời…

2. Nội dung quyền dân tộc cơ bản

Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức phát triển là một trong những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế. Quyền này được thể hiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc.

Theo đó, quyền dân tộc tự quyết được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa năm 1960; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

Theo Khoản 2 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”.

=> Như vậy, khái niệm “dân tộc tự quyết” được nhắc đến trong Hiến chương Liên hợp quốc không phải là quyền đòi ly khai hay đòi độc lập của một hay nhiều nhóm sắc tộc, dân tộc thiểu số vốn đã là những thành phần trong một quốc gia – dân tộc thống nhất. Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể luật quốc tế.

Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đã khẳng định “việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự do gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”. Nguyên tắc dân tộc tự quyết bao hàm các nội dung sau:

– Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;

– Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế xã hội;

– Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;

– Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự;

– Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống, lịch sử văn hóa, tín ngưỡng, điều kiện địa lý.

3. Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam

Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là quyền dân tộc cơ bản của mỗi quốc gia dân tộc. Trong Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945), Hồ Chí Minh khẳng định Việt Nam đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập và toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Trước những khó khăn của Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, nhất là âm mưu thôn tính của thực dân Pháp; để đẩy nhanh quân đội Trung Hoa quốc dân đảng về nước, ngăn chặn một cuộc chiến tranh quá sớm và tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng cho một cuộc kháng chiến lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ (6-3- 1946). Theo đó, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.

Như vậy, Hiệp định này mới chỉ công nhận tính thống nhất (là một quốc gia), nhưng chưa công nhận nền độc lập. Việt Nam còn bị ràng buộc vào nước Pháp Hiệp định trên không được thực dân Pháp tôn trọng. Họ lập ra chính phủ Nam Kỳ tự trị, âm mưu tách Nam Kỳ khỏi Việt Nam (phá vỡ sự thống nhất nước Việt Nam mà họ đã công nhận). Mặt khác, họ tiếp tục bám giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự, xóa bỏ nền độc lập mà nhân dân ta mới giành được. Nhân dân Việt Nam phải tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, giành thắng lợi trong các chiến dịch Việt Bắc 1947, Biên giới 1950…, kết thúc bằng cuộc tiến công chiến lược đông-xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương.

Với Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954), thực dân Pháp buộc phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Nếu như trong Hiệp định sơ bộ (6-3-1946), Pháp mới chỉ thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, thì đến Hiệp định Giơnevơ, lần đầu tiên một hiệp định quốc tế với sự tham gia của các nước lớn, phải công nhận đầy đủ các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam.

Sau hai năm thi hành Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam không được thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử, mà bị chia cắt thành hai miền. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng ở miền Nam, Mĩ thay thế Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trải qua nghìn năm đấu tranh để giành lấy quyền độc lập, tự do, cụ thể hiện nay,quyền dân tộc cơ bản đã được quy định trong bản Hiến pháp năm 2013.

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

4. Ý nghĩa quyền dân tộc cơ bản

Trong xu thế toàn cầu hóa, các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, có quan hệ hợp tác ngày càng rộng rãi và chặt chẽ, đồng thời phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế sẽ càng khiến cho giá trị của độc lập dân tộc, quyền dân tộc tự quyết cần được khẳng định hơn bao giờ hết.

Với tư cách là một “quốc gia – dân tộc” có chủ quyền, chủ thể của pháp luật quốc tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn vấn đề thực hiện quyền dân tộc tự quyết. Trong Hiến pháp năm 2013, quyền dân tộc tự quyết tiếp tục được khẳng định “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị” (Điều 11).

Hơn nữa, với vai trò là thành viên của các điều ước quốc tế, thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Việt Nam luôn thể hiện trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người, trong đó quyền của các dân tộc thiểu số luôn được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (Điều 5).
Cùng với việc hiến định về quyền của các dân tộc thiểu số, Việt Nam đã và đang thực hiện hiệu quả những chính sách, pháp luật về quyền của các dân tộc thiểu số khiến cho đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số ngày một nâng cao, bên cạnh đó, các quyền đặc thù của các dân tộc thiểu số như quyền được giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa, quyền được Nhà nước hỗ trợ phát triển đã tạo ra sự bình đẳng cho các dân tộc thiểu số khi tham gia các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhận thức đúng đắn về quyền dân tộc và chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong bảo đảm thực hiện những quyền này sẽ góp phần ngăn chặn những hành vi của những kẻ phản dân, hại nước luôn có âm mưu lợi dụng để tiến hành các hoạt động lôi kéo, kích động bạo lực, phá hoại tình đoàn kết dân tộc, thiết nghĩ đây là điều rất cần thiết trong nhận thức đối với mỗi quốc gia hiện nay.

5. Quyền dân tộc tự quyết trong pháp luật quốc tế

Tôn trọng quyền của các dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức phát triển là một trong những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế. Quyền này được thể hiện một cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc. Theo đó, quyền dân tộc tự quyết được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa năm 1960; Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966; Tuyên bố năm 1970 về các nguyên tắc của Liên hợp quốc.

Theo Khoản 2 Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc ghi nhận rằng “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”. Như vậy, khái niệm “dân tộc tự quyết” được nhắc đến trong Hiến chương Liên hợp quốc không phải là quyền đòi ly khai hay đòi độc lập của một hay nhiều nhóm sắc tộc, dân tộc thiểu số vốn đã là những thành phần trong một quốc gia – dân tộc thống nhất. Quyền dân tộc tự quyết ở đây chỉ thuộc về nhân dân theo nghĩa là tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định – chủ thể luật quốc tế.

Trân trọng!
Luật Minh KHuê (tổng hợp & phân tích)