Quyền tối thượng của người tiêu dùng (consumer sovereignty) là trong ngôn ngữ thông dụng, chúng ta thường nói khách hàng là thượng đế. Khái niệm này hàm ý người tiêu dùng là người phán quyết cuối cùng và chính xác nhất về phúc lợi kinh tế của chính họ. Giả định này là cơ sở cho lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng và nhờ có nó mà nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế phúc lợi có thể đưa ra trạng thái tối ưu, ví dụ tối ưu Pareto. Tuy nhiên, quan điểm này cũng bị một số người phê phán. Chẳng hạn theo J.G. Galbraith, chính phủ nên cung cấp các hàng hoá khuyến dụng, vì quảng cáo chỉ làm biến dạng sở thích của người tiêu dùng.

Ricardo, David (1772 – 1823) là ai ?

Ricardo, David (1772 – 1823) là nhà môi giới chứng khoán người Anh, người đã tích lũy được nhiều tài sản trước khi nghỉ hưu sớm để nghiên cứu kinh tế học. Trong tác phẩm Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khoá (1817), Ricardo (Ricácđô) đã cho rằng giá trị trao đổi của các sản phẩm bị quy định bởi lượng lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm đó. Ông phát triển lý thuyết về phân phối để lý giải cách thức phân phối giá trị giữa các giai cấp chủ yếu trong xã hội. Ricácđô cho rằng dù nền kinh tế thịnh vượng đến đâu đi chăng nữa, tiền lương cũng không thể tăng lên cao hơn mức đủ để đảm bảo cho người lao động tồn tại. Khi công nhân có nhiều tiền hơn, họ có nhiều con hơn, và khi những đứa trẻ này lớn lên, lực lượng lao động bổ sung này làm cho tiền lương giảm xuống vì không thể có sự gia tăng nhanh chóng tương ứng trong sản lượng. Kết quả đó dẫn tới qui luật sắt về tiền lương.

Ricácđô lý luận rằng các nhà sản xuất phi nông nghiệp cũng không được hưởng lợi nhiều từ tiến bợ về kinh tế, vì sự cạnh tranh giữ cho giá sản phẩm của họ chỉ ờ mức có lợi nhuận dài hạn bình thường và việc thanh toán tiền lương làm giảm bớt lợi nhuận của họ. Ông coi giai cấp địa chủ là người duy nhất thực sự được hưởng lợi từ tiến bộ kinh tế, vì với lượng đất canh tác có hạn và dân số phải nuôi ngày càng tăng, thu nhập tùr địa tô và giá trị của đất đai ngày càng tăng. Sự gia tăng địa tó làm tăng chi phí sản xuất lương thực và công nhân phải được trả tiền lương cao hơn để trang trải chi phí thực phẩm. Xu thế này sẽ làm xói mòn lợi nhuận của nhà tư bản.

Ricácđở là người đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh. Theo lý thuyết này, chừng nào còn có những sự khác biệt trong cơ cấu chi phí, thì thương mại quốc tế còn mang lại ích lợi cho các bên tham gia.

rò rỉ, các khoản (leakages) Xem khoản rút ra.

Robinson, Joan (1903 – 1983) là ai ?

Robinson, Joan (1903 – 1983) là nhà kinh tế người Anh thuộc trường Đại học Cambridge, người đã có công phát triển lý thuyết về cạnh tranh độc quyền trong cuốn Kinh tế học về sự cạnh tranh không hoàn hỏa của bà (1933). Trước khi tác phẩm của Robinson ra đời, các nhà kinh tế học đã phân loại thị trường thành hai nhóm là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó sản phẩm của doanh nghiệp thay thế hoàn hảo cho nhau; và thị trường độc quyền, trong đó sản phẩm của một doanh nghiệp không có mặt hàng thay thế. Robinson, một trong những người lãnh đạo của trường phái kinh tế sau Keynes tại trường Đại học Tổng hợp Cambridge, đã lập luận rằng trên các thị trường trong thực tế, hàng hoá thường thay thế một phần cho các toại hàng hóa khác, và lý thuyết của bà về cạnh tranh và độc quyền đã phân tích giá cả và sản lượng trên những thị trường như vậy. Bà kết luận rằng các doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh độc quyền hạn chế sản lượng nhằm giữ cho giá cả không giảm bằng cách cho nhà máy của họ sản xuất ở dưới mức tối ưu.