Họ có quyền ngang nhau (sở hữu chung hợp nhất) hoặc có phần quyền sở hữu xác định (sở hữu chung theo phần) trên toàn bộ tài sản hoặc khối tài sản.
Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán.
1. Phân tích khái niệm về sở hữu chung
Quyền sở hữu là quyền chi phối tài sản của một chủ thể nhất định. Quyền của chủ sở hữu đối với tài sản gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình theo quy định cùa pháp luật. Trong thực tế, có những trường hợp một tài sản nhưng lại thuộc quyền sở hữu của hai hay nhiều người, nói cách khác đó là trường hợp hai hay nhiều người có chung tài sản. Pháp luật dân sự gọi đó là sở hữu chung. Điều 207 bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản “.
Như vậy, khi hai hoặc nhiều người cùng có chung tài sản thì những người đó được gọi là đồng sở hữu. Các công dân với nhau, các hợp tác xã với nhau, hoặc công dân với hợp tác xã… đều có thể ttở thành đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung. Các đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung có quyền chung nhau cùng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản chung.
2. Phân tích các đặc điểm của sở hữu chung ?
Sở hữu chung trong pháp luật dân sự có đặc điểm là:
– Khách thể của sở hữu chung là thống nhất, đó là một tài sản hoặc một tập hợp tài sản mà nếu đem chia tách về mặt vật lí, tức là chia ra các phần khác nhau… thì sẽ không còn giá trị sử dụng như ban đầu; các chủ sở hữu sẽ không khai thác được công dụng vốn có của nó. Ví dụ: Một xe ô tô thuộc sở hữu chung của các đồng sở hữu. Nếu đem chia tách ra thành các phần nhỏ thì trở thành phụ tùng mà không còn công dụng để chở hàng hoá hoặc chuyên chở hành khách. Ngoài ra, trong thực tế còn có trường hợp do tập quán hoặc do kết cấu xây dựng, tính chất, công dụng mà khách thể chỉ có thể là tài sản chung. Điều này còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận hoặc thói quen của tập quán.
– Về chủ thể: Mỗi đồng chủ sở hữu chung khi thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung sẽ liên quan đến quyền lợi của tất cả các đồng chủ sở hữu khác. Tuy nhiên, mỗi đồng chủ sở hữu trong sở hữu chung có vị trí độc lập và tham gia quan hệ pháp luật dân sự với tư cách là một chủ sở hữu độc lập.
– Việc thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung của các đồng chủ sở hữu cũng có những đặc diêm riêng. Tuy rằng, địa vị của mỗi đồng chủ sở hữu có tính chất độc lập nhưng các quyền năng của mỗi chủ sở hữu lại thống nhất đối với toàn bộ khối tài sản chung mà không phải chỉ riêng với phần giá trị tài sản mà họ có. Nếu quyền năng của mỗi đồng chủ sở hữu mà tách ra theo phạm vi phần giá trị tài sản mà họ có thì các đồng chủ sở hữu không thể sử dụng được tài sản và do vậy, sở hữu chung ấy sẽ không có ý nghĩa. Từ đặc điểm này nên việc sử dụng, định đoạt tài sản phải được các đồng chủ sở hữu thoả thuận dựa ưên tính chất, công dụng của tài sản và dựa vào hoàn cảnh cụ thể của các đồng chủ sở hữu chung.
Đối với việc sử dụng tài sản (Điều 217 BLDS). Các đồng chủ sở hữu có thể thoả thuận và lựa chọn một ttong những hình thức: Cùng sử dụng để khai thác công dụng của tài sản; thay phiên nhaú sử dụng (nếu tài sản chung không thể phân chia thành nhiều phần để sử dụng. Ví dụ: trâu, bò mua chung để khai thác sức kéo thường được thay phiên nhau sử dụng theo thoả thuận); hoặc nếu tài sản gồm nhiều vật khác nhau, các chủ sở hữu có thể thay phiên nhau sử dụng từng vật, tức là mỗi người sử dụng một phần tài sản mà vẫn bảo đảm dược nhu cầu sử dụng. Trường hợp các chủ sở hữu mua chung tài sản để cho thuê thì căn cứ vào phần quyền tài sản của mỗi chủ sở hữu để xác định quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người.
Đối với việc định đoạt tài sản (Điều 218 BLDS). về nguyên tắc, mỗi đồng chủ sở hữu chung là một chủ thể độc lập nên có những quyền nhất định. Chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì các chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Sau thời hạn 03 tháng đối với tài sản chung là bất động sản, 01 tháng đối với tài sản chung là động sản mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán phần quyền sở hữu chung của mình cho người khác (khoản 3 Điều 218 BLDS). Nếu một chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chủ sở hữu chết mà không có người thừa kế thì phần quyền tài sản đó sẽ thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Trường hợp này không áp dụng Điều 228 BLDS – Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu. Trường hợp trên, vật đang có chủ sở hữu nhưng chủ sở hữu không muốn sở hữu nữa vì vậy sẽ có nhiều chủ thể muốn được sở hữu, cho nên sẽ xảy ra tranh chấp giữa người biết được chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu và những người đồng sở hữu. Theo Điều 228 BLDS thì người phát hiện tài sản đó là trong tình trạng không có ai chiếm giữ, do vậy, nếu vật là động sàn thì thuộc quyền sở hữu của người phát hiện được, nếu là bất động sản thì thuộc quyền sở hữu của nhà nước.
3. Phân loại các loại sở hữu chung hiện nay
3.1 Sở hữu chung theo phần
Khoản 1 Điều 209 BLDS quy định:
“Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đổi với tài sản chung”.
Trong sở hữu chung theo phần, mỗi đồng chủ sở hữu biết trước được tỉ lệ phần quyền của mình đối với khối tài sản chung. Phần quyền đó có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau.
Phần quyền được xác định trước này là đối với toàn bộ tài sản thuộc sở hữu chung của tất cả các đồng chủ sở hữu. Do vậy, phần tài sản của các đồng chủ sở hữu ữong sở hữu chung theo phần bao giờ cũng phải được biểu hiện bằng những đơn vị số học cụ thể. Thông qua đơn vị số học đó mà thấy được phần quyền của mỗi đồng chủ sở hữu là bao nhiêu trong khối tài sản chung. Ví dụ: 1/2; 1/3; 1/4 tổng số tài sản. Cùng với việc xác định tỉ lệ phần quyền thì việc xác định nghĩa vụ của mỗi một đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung cũng theo nguyên tẳc: Nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền của chủ sở hữu chung đó (nếu các đồng chủ sở hữu chung không có thoả thuận khác).
Trong sở hữu chung theo phần, quyền lợi của các đồng chủ sở hữu có liên quan mật thiết với nhau khi họ thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu. Vì vậy, khi thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thuộc sở hữu chung theo phần phải được tiến hành trên cơ sở thoả thuận và nhất trí giữa các đồng chủ sở hữu. Điều 216 BLDS đã quy định: “Các chủ sở hữu chung cùng quản lí tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Điều này thể hiện ở việc các đồng chủ sở hữu phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất về cách bảo quản, sử dụng tài sản trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận. Mọi thoả thuận hợp pháp của các đồng chủ sở hữu đều có hiệu lực bắt buộc và cũng là cơ sở pháp lí để giải quyết khi có tranh chấp.
Mặc dù phần quyền của mỗi người có thể không bằng nhau nhưng tài sản ttong sở hữu chung theo phần là một thể thống nhất, có môi liên hệ, hên kết chặt chẽ với nhau. Quyền của mỗi người bao trùm đối với toàn bộ tài sản nên họ phải được quyển ngang nhau ưong việc chiếm hữu và sử dụng tài sản chung. Ví dự. Gia súc để cày, kéo được mua chung thì mỗi người khi sử dụng phải sử dụng cả gia súc đó mới khai thác được công dụng.
Khi tài sản thuộc sở hữu chung được sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh mà sinh lợi thì số lợi đó sẽ được chia cho các đồng chủ sở hữu theo tỉ lệ phần quyền tương ứng của mỗi người. Khoản 1 Điều 217 BLĐS quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình…”. Tương tự như vậy, khi phải chi phí để duy trì, củng cố tài sản chung thì mỗi đồng chủ sở hữu cũng phải chịu một phần chi phí theo tỉ lệ phần quyền của người đó.
Việc định đoạt tài sản chung của mỗi một đồng chủ sở hữu là việc định đoạt phần quyền của họ trong khối tài sản chung.
Mỗi đồng chủ sở hữu có toàn quyền trong việc định đoạt phần quyền của mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung mà không ai có quyền ngăn cản. Việc chuyển phần quyền của một đồng chủ sở hữu thông qua việc mua, bán, cho, đổi, thừa kế… cho người khác hoàn toàn không phải là việc trao cho người khác đủ một phần cụ thể của tài sản. Nói cách khác, việc định đoạt đó làm chấm dứt phần quyền của người đó nhưng lại làm xuất hiện quyền sở hữu của người khác đối với toàn bộ tài sản là một khách thể thông nhất trong sở hữu chung theo phần (khi một đồng chủ sờ hữu chung khác được quyền ưu tiên mua theo quy định tại Điều 218 BLDS).
Sở hữu chung theo phần là hình thức cộng hợp phần tài sản của các đồng chủ sở hữu để cùng sản xuất, sử dụng, góp phần khai thác, tận dụng được mức tối đa giá trị sử dụng của tài sản. Sở hữu chung theo phần là cơ sở pháp lí để các chủ sở hữu liên doanh, liên kết, chung vốn mua sắm các tài sản hoặc xây dựng các công trình mà nếu một chủ thể riêng biệt thì không đủ khả năng để thực hiện.
Do có tính chất đặc thù nên sở hữu chung theo phần xuất hiện khi có một ttong những điều kiện:
– Do nhiều người cùng chung cồng sức để tạo ra tài sản;
– Do góp tiền để mua sắm tài sản hoặc để xây dựng chung một công trình;
– Do cùng được tặng cho hoặc cùng được thừa kế chung tài sản.
Sở hữu chung là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu nên nó cũng chấm dứt khi có những sự kiện pháp lí quy định tại Điều 220 BLDS. Việc chia tài sản thuộc sở hữu chung được thực hiện theo quy định tại Điều 219 BLDS.
3.2 Sở hữu chung hợp nhất
Sở hữu chung hợp nhất là hình thức sở hữu của hai hay nhiều chủ thể đối với khối tài sản chung. Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia. Tính chất đặc thù của sở hữu chung hợp nhất được quy định tại khoản 1 Điều 210 BLDS:
“Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đổi với tài sản chung”.
Thông thường quyền sờ hữu chung hợp nhất chỉ phát sinh trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Điều 213 BLDS xác định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Đó là khối tài sản do vợ chồng làm ra ttong thời kì hôn nhân bằng công sức của mỗi người hoặc do được tặng cho chung, thừa kế chung.
Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cà gia đình. Vợ chồng đều có quyền ngang nhau đổi với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia. Ví dụ: Khi bán nhà là tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng phải được sự đồng ý bằng văn bản (uỷ quyền, hoặc thể hiện bằng chữ kí) của người kia. Pháp luật dân sự (kể cả Luật hôn nhân và gia đình) quy định như vậy nhằm bảo đảm cho vợ chồng được bình đẳng ttong quan hệ gia đình, xoá bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình. Cùng với việc quy định tài sản chung, Luật hôn nhân và gia dinh cũng quy định về tài sản riêng của vợ và chồng. Đó là tài sản có trước thời kì hôn nhân hoặc được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân. Vợ, chồng có thể tự nguyện nhập khối tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của gia đình.
Như vậy, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đổi với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp, được tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình thì họ cũng có quyển sở hữu đổi với khối tài sản chung cùa gia đình.
Phần tài sản cụ thể của mỗi người chỉ được xác định rõ ràng khi một ttong số họ chết mà những người thừa kế yêu cầu chia tài sản của người chết, nếu tài sản này thuộc sở hữu chung của bố mẹ và các con; phần cụ thể của mỗi người còn được xác định nếu có lí do chính đáng và họ thoả thuận chia, hoặc tài sản được phân chia theo quyết định cùa toà án khi li hôn. Neu vợ chồng li hôn, về nguyên tắc tài sản sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến công sức đóng góp của mồi người vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung; có ưu tiên cho những người phải nuôi và chăm sóc con còn nhỏ.
Tóm lại, trong sở hữu chung hợp nhất, các chủ sở hữu chung có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung ngang nhau, nếu không có thoả thuận khác. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.
3.3 Sở hữu chung cộng đồng
Sở hữu chung cộng đồng là loại sở hữu chung hợp nhất không phân chia của dòng họ theo huyết thống, theo cộng đồng tôn giáo hoặc cộng đồng dân cư (thôn, ấp, làng, bản) đổi với tài sản được hình thành theo tập quán hoặc do các thành viên của cộng đồng quyên góp tạo dựng nên. Ví dụ: Nhà thờ, từ đường, thánh thất tôn giáo là sở hữu cộng đồng của dòng họ, hoặc kết cấu hạ tầng phục vụ chung cho cả cộng đồng dân cư như đường đi, giếng nước công cộng…
Sở hữu chung cộng đồng do đặc điểm lịch sử được tạo dựng qua nhiều thế hệ nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Do đó, các thành viên của cộng đồng cùng có quyền quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Tuy nhiên, phải tuân thủ nguyên tắc chung là không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong quá trình quản lí, sử dụng tài sản, các thành viên phải cùng bàn bạc, thoả thuận. Tuỳ từng loại tài sản chung cộng đồng mà phương thức quản lí, sử dụng có thể khác nhau. Ví dụ: Các kết cấu hạ tầng của cả cộng đồng dân cư thì mọi người cùng có quyền sử dụng chung và quản lí theo phương thức đã thoả thuận nhưng đổi với nhà từ đường (nơi thờ cúng) của một dòng họ, theo tập quán lại do người con, cháu trai cả, ngành trưởng quản lí, trông coi để thờ cúng.
Do mục đích của sở hữu chung cộng đồng là thoả mãn chung lợi ích hợp pháp của cả cộng đồng nên tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.
Việc sở hữu chung trong nhà chung cư về nguyên tắc cũng là sở hữu chung hợp nhất không phân chia như sở hữu chung của cộng đồng. Đối với phần diện tích và ttang thiết bị dùng chung như lối đi, cầu thang, bể nước… thì các chủ sở hữu các căn hộ ưong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lí, sử dụng và có ttách nhiệm bảo vệ, bảo đảm an toàn cho những người xung quanh. Việc sử dụng khoảng không, mặt đất theo quy định của pháp luật.
3.4 Sở hữu chung hỗn hợp
– Khái niệm: Sở hữu chung hỗn hợp là phạm trù kinh tế để chỉ hình thức sở hữu đối với tài sản của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh nhưng không hình thành pháp nhân mới, do vậy tài sản chung hỗn hợp được sử dụng theo quy định tại Điều 209 BLDS.
Đặc điểm của chế độ kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chính sách mở rộng giao lưu và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á và tất cả các nước ưên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau… thì sở hữu hỗn hợp là cơ sở pháp lí tạo điều kiện cho việc liên doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong và ngoài nước.
Trong sở hữu chung hỗn hợp, các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thoả thuận theo nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện về tài sản và số lượng vốn góp để tiến hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Trên thực tế, sở hữu hỗn hợp là sự phát triển ở một trình độ cao của sở hữu chung trước yêu cầu mới về vốn, về quy mô phát triển, có sự đa dạng trong sản xuất, kinh doanh trên cơ sở đan xen, Hên kết của các thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Tiêu biểu cho cách thức thực hiện hình thức sở hữu này là việc góp vốn, góp tài sản, mua bán cổ phiếu ở các công ti cổ phần và tới đây là việc mua bán tại thị trường chứng khoán. Đây là một thực tế đã trở nên khá sống động của sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển hiện nay. Cùng với sự hình thành thị trường vốn đã tạo nên loại hình sở hữu chung hỗn hợp có những nét đặc thù khác biệt so với loại sở hữu chung theo phần và chung hợp nhất. Do mục đích hình thành loại sở hữu chung hỗn hợp là sản xuất, kinh doanh, cho nên việc góp vốn, tài sản ttong sở hữu chung hỗn hợp làm cho việc quản lí tài sản, tổ chức điềù hành sản xuất, kinh doanh, việc ra nhập hoặc tách khỏi hên doanh, liên kết khác với sở hữu chung theo phần hoặc sở hữu chung hợp nhất.
Quyền sở hữu chung hỗn hợp nếu hiểu là một phạm trù pháp lí gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản, vốn của các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế đã tự nguyện tham gia thành lập một nhóm chủ thể, vì vậy các chủ sở hữu tài sản thuộc các thành phần kinh tế có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều 209 BLDS.
Nhà nước quy định và bảo hộ quyền sở hữu chung hỗn hợp đổi với các tài sản là tư liệu sản xuất, công cụ lao động và các loại vốn đã đóng góp để tạo hành lang pháp lí cho cá nhân và các loại doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau an tâm đầu tư cùng sản xuất kinh doanh.
– Chủ thể, khách thể, nội dung của sở hữu chung hỗn hợp:
+ Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp
Chủ thể của sở hữu chung hỗn hợp là nhóm cá nhân hoặc nhóm pháp nhân… thuộc các thành phần kinh tế cùng liên kết, hợp tác sản xuất, kinh doanh.
+ Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp
Khách thể của sở hữu chung hỗn hợp là những tài sản được hình thành từ nguồn đóng góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Phạm vi khách thể cùa sở hữu chung hỗn hợp đa dạng và phong phú bao gồm: Các nguồn góp vốn bằng tiền (kể cả ngoại tệ), cửa hàng thương mại, bằng phát minh sáng chế, quyền thuê mướn, kim khí quý đá quý hoặc các tặng phẩm đặc biệt… Các tài sản là tư liệu sàn xuất, tư liệu tiêu dùng phục vụ cho việc sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận cũng thuộc khách thể sở hữu chung hỗn hợp.
Như các loại sở hữu chung khác, những tài sản đóng góp hợp pháp hoặc thu được từ quá trình sản xuất kinh doanh hợp pháp trong sở hữu chung hỗn hợp không bị hạn chế về số lượng, giá trị, nhất là trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Tuy nhiên, đổi với những tài sản mà pháp luật quy định thuộc sở hữu toàn dân thì không thể thuộc khách thể sở hữu chung hỗn hợp. Ví dụ: Các kho hàng, nhà xưởng xây dựng trên đất hoặc những công trình khác đều thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Nhưng đất đai không phải là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp. Cá nhân, tổ chức chỉ có thể góp tài sản bằng quyền sử dụng đất theo quy định của BLDS và pháp luật đất đai.
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân có thể được góp vốn nhưng theo quy định của pháp luật. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật có thể cử công chức đang làm việc ữong cơ quan hành chính nhà nước; những người đang giữ chức vụ trong bộ máy chính quyền theo chế độ bầu cử; cán bộ quản lí các liên hiệp xí nghiệp và xí nghiệp quốc doanh; sĩ quan quân đội và công an tại ngũ… làm đại diện cho phần vốn thuộc sở hữu toàn dân góp vào sở hữu chung hỗn hợp.
+ Nội dung của sở hữu chung hỗn hợp
Nội dung của sở hữu chung hỗn hợp được thể hiện ở việc quản lí, chi phối nguồn vốn và tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.
Sở hữu chung hỗn hợp là một dạng cụ thể của sở hữu chung nhưng đông thời lại có những nét đặc thù riêng. Sở hữu chung hỗn hợp thường có quy mô hoạt động rộng khắp trong nhiều ngành nghề khác nhau và có mục đích thu lợi nhuận nên việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không theo các nguyên tắc của sở hữu chung thông thường. Vì vậy, Điều 215 BLDS đã quy định:
“Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sờ hữu chung hỗn hợp phải tuân theo quỵ định tại Điểu 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lí, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận”.
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cá nhân được ủy quyền sẽ thực hiện quyền của các chủ sở hữu trong quản lí, tô chức, điều hành nhằm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh đã được tất cả các chủ sở hữu thoả thuận.
Mọi vướng mắc pháp lý về luật dân sự về quyền sở hữu, sở hữu chung cũng như các vấn đề khác liên quan. Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật dân sự, thừa kế trực tuyến.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group