1. Khái niệm tài sản và quyền tặng cho đối với tài sản
Khái niệm tài sản: Tài sản – với tư cách là khách thể của quan hệ sở hữu – đã được Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 xác định như sau:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
Bộ luật cơ bản kế thừa các quy định về thực hiện quyền sở hữu trong BLDS 2015. Cụ thể theo quy định tại Điều 158: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”
– Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản.
– Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
– Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.
Như vậy, là người có quyền sở hữu tài sản, bạn có quyền định đoạt với tài sản đó. Định đoạt có thể là chuyển nhượng lại quyền sở hữu, thừa kế hoặc tặng cho lại cho người khác.
2. Hợp đồng tặng cho tài sản là gì?
Tặng cho tài sản được thực hiện thông qua hợp đồng tặng cho tài sản. Khoa học pháp lý xếp tặng cho tài sản là một loại hợp đồng thông dụng, có đặc điểm riêng biệt so với những loại hợp đồng thông dụng khác.
Trong các hợp đồng thông dụng, tặng cho tài sản là một hợp đồng có những đặc điểm riêng biệt… Tặng cho tài sản làm phát sinh quan hệ hợp đồng khi bên được tặng, cho nhận tài sản. Hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế, sau khi các bên đã thoả thuận về việc tặng cho mà chưa chuyển giao tài sản, không làm phát sinh quyền của các bên. Vì vậy, hợp đồng được coi là kí kết khi các bên chuyển giao tài sản. Thời điểm chuyển tài sản cũng đồng thời là thời điểm chấm dứt hợp đồng (đối với động sản). Điều 457 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản
Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.”
Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng không có đền bù. Đặc điểm này được thể hiện ở việc một bên chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho bên được tặng cho còn bên được tặng cho không có nghĩa vụ trả lại bên tặng cho bất kì lợi ích nào.
Hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng thực tế. Khi bên được tặng cho nhận tài sản thì quyền của các bên mới phát sinh. Do vậy. mọi thỏa thuận chưa có hiệu lực khi chưa giao tài sản.
3. Hình thức của hợp đồng tặng cho tài sản
Hình thức của hợp đồng tặng cho phụ thuộc vào đối tượng của nó. Nếu đối tượng của hợp đồng tặng cho là động sản thì hợp đồng tặng cho có thể bằng miệng, văn bản. Nếu đối tượng của hợp đồng là tài sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc là bất động sản thì hình thức của hợp đồng tặng cho phải là văn bản có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4. Đối tượng của hợp đồng tặng cho tài sản
Đối tượng của hợp đồng tặng cho có thể là động sản hoặc bất động sản theo Điều 458 và 459 BLDS
4.1. Tặng cho động sản
Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.
4.2. Tặng cho bất động sản
Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.
Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản
Lưu ý:
– Đối tượng của hợp đồng tặng cho có thể là quyền tài sản (quyền yêu cầu của người khác). Trường hợp này được điều chỉnh bởi các quy định về chuyển quyền yêu cầu. Sau khi tặng cho, người được tặng cho rở thành người có quyền đối với bên có nghĩa vụ.
– Đối tượng tặng cho là quyền sử dụng đất thì khi tặng cho phải tuân theo quy định Luật đất đai 2013.
5. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng tặng cho tài sản
5.1. Tặng cho tài sản có thể là hợp đồng thực tế, có thể là hợp đồng ưng thuận
“Hợp đồng được coi là ký kết khi các bên chuyển giao tài sản, thời điểm chuyển giao tài sản cũng đồng thời là thời điểm chấm dứt hợp đồng”. “Dù hai bên đã thỏa thuận cụ thê về đối tượng tặng cho (là tiền hoặc tài sản), điều kiện và thời gian giao tài sản tặng cho, nhưng nếu bên tặng cho chưa giao tiền hoặc tài sản cho người được tặng cho, thì hợp đồng tặng cho tài sản chưa được coi là xác lập”. Điều đó có nghĩa là tặng cho phải diễn ra trên thực tế, nếu hai bên chỉ lập hợp đồng để thỏa thuận về đối tượng tài sản, về quyền và nghĩa vụ của hai bên mới coi là hứa việc tặng cho. Việc chuyển giao tài sản cùng vối quyền sở hữu phải là có thực, hợp đồng được phát sinh và chấm dứt cùng thời điểm chuyển giao tài sản tặng cho.
Song tính chất thực tế của tặng cho luôn gắn liền với đôì tượng tài sản. Đối tượng của tài sản tặng cho có thể là động sản hay bất động sản. Hình thức và hiệu lực của hợp đồng tặng cho phụ thuộc vào đôì tượng tài sản tặng cho. Nếu đổì tượng tài sản tặng cho là động sản thì hình thức của hợp đồng có thể bằng miệng hay bằng văn bản; hiệu lực của hợp đồng này có thể phát sinh khi bên được tặng cho nhận tài sản, hay cũng có thể chỉ phát sinh (dù cho đã nhận tài sản) khi hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu, nếu pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký, ví dụ như ô tô, xe máy… Nếu đốì tượng của tặng cho tài sản là bất động sản thì hình thức của hợp đồng phải lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực; đồng thời, nếu bất động sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho đó còn phải đăng ký quyển sở hữu theo quy định của pháp luật. Hợp đồng chỉ được coi là có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký và làm thủ tục sang tên như tặng cho nhà, đất.
Do đó, có thể khẳng định rằng hợp đồng tặng cho là hợp đồng không có sự đền bù, tuy nhiên nói rằng hợp đồng tặng cho là hợp đồng thực tế thì còn cần phải xem xét. Lý thuyết về hợp đồng chỉ ra rằng, hợp đồng thực tế là hợp đồng chỉ phát sinh hiệu lực tại thời điểm các bên thực hiện nghĩa vụ của mình trên thực tế. Theo đó, hợp đồng có hiệu lực ngay sau khi các bên đạt được thỏa thuận nếu không có thỏa thuận về thời điểm hiệu lực của hợp đồng. Bởi vì: “Nếu tặng cho lập thành văn bản thì hợp đồng thường là hợp đồng ưng thuận. Tính chất ưng thuận của hợp đồng tặng cho bằng văn bản còn được thê hiện thông qua việc pháp luật quy định những trường hợp bên tặng cho có thê từ chối thực hiện tặng cho theo hợp đồng”.
Vấn để được xem xét ở đây là nếu tặng cho bất động sản là nhà, đất phải đăng ký, thủ tục đăng ký và sang tên sở hữu đã được hoàn tất, nhưng trên thực tế người được tặng cho lại chưa nhận được tài sản, về mặt pháp lý, hợp đồng tặng cho đã được thực hiện. Pháp luật cũng không có quy định trong trường hợp này người tặng cho buộc phải giao tài sản cho người được tặng cho hay cho phép người được tặng cho có quyền buộc người tặng cho phải giao tài sản cho họ. Thậm chí, pháp luật lại quy định: “Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản, thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện”.
Lẽ ra, trườnghợp này pháp luật phải có quy định buộc người tặng cho phải giao tài sản thay vì buộc họ phải thanh toán nghĩa vụ mà người được tặng cho đã thực hiện. Do đó, tính chất thực tế ở đây không là thuộc tính của tặng cho tài sản là bất động sản, mà tặng cho bất động sản lại là hợp đồng có tính chất ưng thuận.
5.2. Tặng cho tài sản là hợp đồng đơn vụ
Tính chất đơn vụ được lý giải: “Trong quan hệ hợp đồng này, một bên được nhận tài sản tặng cho mà không phải thực hiện một nghĩa vụ gì đối với bển đã tặng cho (trừ trường hợp tặng cho có điều kiện)”. Như vậy, có quan điểm cho rằng, hợp đồng tặng cho tài sản không phải hoàn toàn bao giờ cũng là đơn vụ, vì hợp đồng tặng cho có điều kiện được coi là hợp đồng song vụ. Khái niệm tặng cho có điều kiện được hiểu như sau: “Tặng cho tài sản có điều kiện trong đó bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hạinỵ. Do đó, quan điểm này khẳng định tính chất đơn vụ của tặng cho không cố định, tùy từng trường hợp cụ thể nó có thể là đơn vụ hay song vụ. Cũng vì căn cứ vào tính chất này mà người ta có thể phân loại ra hai hình thức là tặng cho có điều kiện và tặng cho không điều kiện. Với quan điểm như vậy, phân tích rộng ra thì tính chất đơn vụ không phải là thuộc tính của tặng cho tài sản. Bởi vì, đối với cả trường hợp tặng cho không có điều kiện, người được tặng cho được quyền nhận tài sản (trả ơn) trong quan hệ tặng cho đối với người tặng cho, thì bù lại người được tặng cho đã phải thực hiện một nghĩa vụ (giúp đỡ) trong quan hệ khác đối vối người tặng cho.
Về hợp đồng dân sự có điều kiện, pháp luật quy định như sau: “Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định”. Điểu kiện trong hợp đồng thông thường được hiểu theo nghĩa rất rộng: “Là những sự kiện mà theo sự thỏa thuận của các bên khi nó xảy ra thì giao dịch được thực hiện hoặc phải chấm dứt. Những sự kiện đó bao gồm sự biến và hành vi, được một bên đưa ra hoặc các bên thỏa thuận; điều kiện đó phải mang tính khách quan; nếu điều kiện là công việc phải làm thì đó là công việc có thê thực hiện được, phù hợp với pháp luật và không trái đạo đức xã hội”, về điều kiện trong hợp đồng tặng cho tài sản, đó là thực hiện một hay nhiều nghĩa vụ; điều kiện đó có xảy ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người được tặng cho, nhưng thực hiện nghĩa vụ phải phù hợp với quy định của pháp luật về nghĩa vụ dân sự. So vổi các hợp đồng thông dụng, điểu kiện mà các bên thỏa thuận phải có ý nghĩa đối với việc thực hiện hợp đồng. Còn những điều kiện “thực hiện nghĩa vụ” trong hợp đồng tặng cho không có hiệu lực ràng buộc đối vói các bên. Do đó, không thể coi hợp đồng tặng cho có điểu kiện là hợp đồng song vụ, trong đó hai bên cùng có nghĩa vụ được, vì quyền của bên này không tương ứng với nghĩa vụ của bên kia.
5.3. Tặng cho là một hợp đồng không có đền bù
Đặc điểm này được thể hiện ở việc, bên tặng cho chuyển giao tài sản và quyền sở hữu cho bên được tặng cho, còn bên được tặng cho không có nghĩa vụ trả lại cho bên tặng cho bất kỳ lợi ích nào. Đối với những trường hợp tặng cho có điều kiện, buộc người tặng cho phải thực hiện một công việc nào đó, tính chất pháp lý của công việc mà người được tặng cho phải thực hiện hoàn toàn khác. Đây không phải là tính chất đền bù trong giao dịch dân sự. Tất nhiên, chuyển giao tài sản và quyền sở hữu mà có đền bù ngang bằng giá trị của tài sản thì trở thành mua bán tài sản, nên việc không có đền bù là thuộc tính tạo nên bản chất và đặc điểm cơ bản của tặng cho tài sản. Tính chất không có đền bù thể hiện bên được tặng cho nhận tài sản mà không phải giao lại cho bên tặng cho một lợi ích nào. Do đó, “hợp đồng không có đền bù thường được giao kết trên cơ sở tình cảm và tinh thần tương thân, tương ái giữa các chủ thể”.
Trong hợp đồng tặng cho có điều kiện, tính chất không có đền bù thể hiện ở chỗ, những nghĩa vụ mà người tặng cho yêu cầu người được tặng cho thực hiện vì những nhu cầu tình cảm hay vật chất trong cuộc sống, mà không tính toán đến giá trị tương ứng vối tài sản tặng cho. Có quan điểm cho rằng: “Chỉ những công việc không mang đến những giá trị vật chất cho người tặng cho mới không mang tính đền bù. Đôi với những công việc mà bên được tặng cho tài sản thực hiện có tính chất làm tăng giá trị tài sản cho người tặng cho hoặc thanh toán những khoản nợ của họ, dù giá trị mang lại nhỏ hơn giá trị tài sản tặng cho, đều thê hiện một sự đền bù, và vì vậy, nó không thể được chấp nhận là điều kiện của hợp đồng tặng cho”. Người viết không đồng tình với quan điểm này, vì bên tặng cho sau khi giao tài sản lại được nhận từ bên được tặng cho một lợi ích tương ứng là trao đổi tài sản hay mua bán tài sản chứ không phải là tặng cho tài sản. Tuy nhiên trên thực tế, tính chất có đền bù tương xứng không chỉ là sự trao đổi các lợi ích vật chất, mà có khi cả về tinh thần như hợp đồng làm bảo mẫu chăm sóc trẻ; không phải chỉ có hợp đồng song vụ mối có tính đền bù, mà hợp đồng đơn vụ cũng có tính đền bù như hợp đồng vay có lãi; có nhiều hợp đồng song vụ lại không mang tính đển bù như hợp đồng gửi giữ không có thù lao.
Có thể nhất trí với quan điểm cho rằng: “Dẫu sao, phải thừa nhận rằng trên thực tế đây là loại hợp đồng mà nguyên tắc bình đắng giữa các bên giao kết ít được tôn trọng nhất. Thật vậy, thông thường người cho giữ ở vị trí của kẻ mạnh trong quan hệ tay đôi, do đó là người chủ động áp đặt các điều kiện, cũng như xác định phạm vi đối tượng của hợp đồng. Người cho luôn luôn có thê nói với người được tặng cho hoặc là lấy đi, hoặc là để lại.
Mọi vướng mắc pháp lý vui lòng gọi: 1900.0191 chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ và giải đáp mọi vướng mắc của khách hàng.
Trân trọng./.