Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu đến công ty của chúng tôi, để giải đáp thắc mắc của bạn, bạn hãy cùng chúng tôi theo dõi các nội dung sau:

Cơ sở pháp lý:

Hiến pháp nước Cộng hòa Ba Lan 1997

Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993

Hiến pháp Italia 1947

Hiến pháp Nhật Bản 1946

hiến pháp cộng hòa Xéc năm 1992

Đạo luật Liên bang Áo năm 1970

NỘI DUNG TƯ VẤN

1. Xác định ngày bầu cử :

Để tiến hành một cuộc bầu cử trước hết phải xác định ngày bầu cử. Hiến pháp và luật bầu cử của đa số các nước chỉ quy định thời hạn chung cho các cuộc bầu cử, còn ngày bầu cử cụ thể do cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền xác định. Ví dụ, Điều 17 hiến pháp cộng hòa Xéc năm 1992 quy định: “Cuộc bầu cử vào hai viện của Nghị viện được tiến hành trong khoảng thời gian, trước 30 ngày kể từ ngày kết thúc nhiệm kỳ của Nghị viện và kết thúc vào ngày kết thúc nhiệm kỳ của Nghị viện. Trường hợp viện Đại biểu (Hạ nghị viện) bị giải thể thì cuộc bầu cử được tiến hành trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày giải thể viện”. Theo điểm c đoạn 1 Điều 63 Hiến pháp, Tổng thống nước Cộng hòa Ân Độ định cụ thể ngày bầu cử.

Ngoài ra Hiến pháp, luật bầu cử của các nước còn quy định ngày bầu cử phải được tiến hành vào ngày chủ nhật hay ngày lễ. Ví dụ, theo đoạn 3 Điều 26 Đạo luật Liên bang Áo năm 1970, ngày bầu cử Hội đồng dân tộc phải được tiến hành vào ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ chung nào đó.

Nước Mỹ là nước duy nhất xác định ngày bầu cử một lần cho mãi về sau. Các cuộc bầu cử vào Quốc hội Mỹ, Tổng thống Mỹ vào cơ quan tự quản địa phương được tiến hành vào ngày thứ ba sau ngày thứ hai đầu tiên của tháng 11 của những năm chẵn tức là khoảng từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 11.

2. Thành lập đơn vị bầu cử :

Đơn vị bầu cử là một đơn vị địa dư có số dân cư (cử tri) nhất định được bầu một số lượng đại biểu nhất định.

Các đơn vị bầu cử được thành lập trên cơ sở luật định hay bởi chính quyền trung ương. Thông thường đơn vị bầu cử là đơn vị hành chính lãnh thổ (tỉnh, thành phố, vùng), đôi khi đơn vị bầu cử là lãnh thổ chủ thể của Liên bang, hay lãnh thổ của nhiều đơn vị hành chính lãnh thổ. Trường họp trong cuộc bầu cử không thành lập các đơn vị bầu cử thì cả nước là một đơn vị bầu cử. Ví dụ, ở Ixraen trong cuộc bầu cử vào Nghị viện cả nước Ixraen là một đơn vị bầu cử.

Đơn vị bầu cử có một ghế đại biểu là đơn vị được bầu một đại biểu. Đơn vị bầu cử có nhiều ghế đại biểu là đơn vị được bầu hai đại biểu trở lên.

Việc phân chia đơn vị bầu cử có ý nghĩa chính trị quan trọng, bởi vì nó có thể tác động trực tiếp đến kết quả bầu cử. về nguyên tắc, các đơn vị bầu cử được thành lập sao cho bảo đảm sự cân bằng lá phiếu cử cử tri, tức là bảo đảm tôn trọng nguyên tắc bình đẳng. Điều đó có nghĩa là những đơn vị có một ghế đại biểu phải có số dân như nhau. Vì số cử tri trên cùng một số dân ở các đơn vị bầu cử không bằng nhau, do đó để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, có thể lấy số cử tri làm cơ sở để tính định mức bầu cử và phân bổ số lượng đại biểu cho các đơn bị bầu cử. Tuy nhiên có rất ít nước áp dụng phương pháp này, bởi vì đại biểu đại diện không chỉ cho cử tri của địa phương ở đơn vị bầu cử mà còn cho toàn bộ nhân dân.

Đối với các đơn bị bầu cử có nhiều ghế đại biểu, nếu số lượng đại biểu được bầu của các đơn vị bầu cử đó bằng nhau thì số dân phải bằng nhau. Trường hợp các đơn bị bầu cử có số lượng đại biểu khác nhau thì số lượng đại biểu phải tỷ lệ với số dân của đơn vị bầu cử. Trong trường hợp này biểu hiện sự không bình đẳng. Ví dụ, có hai đơn vị bầu cử A và B tương ứng với số dân là 1 vạn và 3 vạn, định mức bầu cử là 1 đại biểu trên 1 vạn dân. Như vậy cử tri ở đơn vị bầu cử A được bầu một đại diện trong khi đó cử tri ở đơn vị bầu cử B được bầu 3 đại diện. Nói cách khác, lá phiếu của cử tri ở đơn vị bầu cử B có giá trị gấp 3 lần lá phiếu của đơn vị bầu cử A.

Để khắc phục hạn chế trên các nước áp dụng chế độ bầu cử hỗn hợp.

3. Khu vực bỏ phiếu

Mỗi đơn vị bầu cử được chia thành các khu vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu là đơn vị địa dư thống nhất lượng cử tri nhất định, nơi cử tri tiến hành bỏ phiếu bầu đại diện. Việc chia khu vực bỏ phiếu mang ý nghĩa kỹ thuật thuần túy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình. Các nước tiến hành chia đơn vị bầu cử thành các khu vực bỏ phiếu theo các phương pháp khác nhau. Ví dụ, ở Pháp mỗi khu vực bỏ phiếu là một đơn vị hành chính lãnh thổ cơ sở; ở Tây Ban Nha mỗi xã được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu, mỗi khu vực bỏ phiếu có từ 500 đến 2000 cử tri.

4. Những quy tắc ứng xử trong bầu cử

Ở nhiều nước, bên cạnh những quy định pháp lý, còn có những quy tắc ứng xử trong vận động bầu cử dành cho các đảng phái và các ứng cử viên, họ phải ký cam kết tuân thủ những quy tắc đó. Ví dụ như bộ quy tắc như vậy được ban kèm theo Luật bầu cử Quốc hội và các cơ quan lập pháp địa phương của Nam Phi năm 1993. Trong văn bản này liệt kê những quyền của các đảng phái và ứng cử viên: thể hiện các quan điểm chính trị khác nhau; bàn luận về chương trình và sách lược của các đảng khác; được tự do tuyên truyền để thu hút cử tri; tổ chức mít tinh và tham gia mít tinh của người khác tổ chức; phổ biến tài liệu về bầu cử và những tư liệu bầu cử khác; in ấn thông báo, áp phích về bầu cử; treo cờ, biểu ngữ, biển bảng áp phích. Bộ quy tắc cũng quy định những nghĩa vụ nhằm bảo đảm tính chất hoà bình của vận động bầu cử: không dùng bạo lực và doạ dẫm; không mang vũ khí trong các cuộc mít tinh và biểu tình; không ra và tuyên truyền những tuyên bố không đúng sự thật hoặc có tính chất khiêu khích; tổ chức các cuộc mít tinh, tuần hành của các đảng phái, tổ chức khác nhau vào những thời gian khác nhau; không cho phép sử dụng những hình ảnh của các đảng khác và không được phá hoại những tài liệu tuyên truyền của các đảng khác

5. Địa điểm, chủ thể vận động bầu cử

Nhiều nước đưa ra những giới hạn về địa điểm và chủ thể được vận động bầu cử. Giới hạn địa điểm vì vận động bầu cử không được ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan nhà nước và không được xâm phạm đến đời sống riêng tư của công dân. Còn những quy định giới hạn chủ thể nhằm bảo đảm sự vô tư của một số nhân vật. Thông thường, những nhân vật sau đây không được tham gia vận động bầu cử: thành viên uỷ ban bầu cử; các cơ quan nhà nước, các cơ quan chính quyền địa phương, các quan chức của các cơ quan đó; các nhà chức trách nếu là ứng cử viên sẽ không giữ chức trong thời gian bầu cử; nhà báo, quan chức, nhân viên của các hãng thông tấn không được thông tin hoặc chỉ được thông tin có mức độ về vận động bầu cử nếu họ là ứng cử viên hoặc thay mặt cho ứng cử viên.
Kết quả vận động bầu cử phụ thuộc nhiều vào nguồn tài chính. Nhưng không phải mọi chính đảng và ứng cử viên đều có những điều kiện tài chính như nhau. Bởi vậy, điều quan trọng là phải bảo đảm để quá trình bầu cử không trở thành nơi độc diễn của những ai nắm trong tay những nguồn tài chính to lớn và liên quan đến điều này là phải bảo đảm được sự minh bạch các nguồn tài chính cho vận động bầu cử. Những quy định trong pháp luật các nước đều cố gắng bảo đảm hai mặt này của vấn đề.

6. Liên hệ:

Việc thiết kế hệ thống bầu cử như thế nào ảnh hưởng to lớn đến hoạt động quản trị quốc gia, ra chính sách và ổn định chính trị. Mỗi một hệ thống bầu cử khác nhau đều có những hệ lụy khác nhau, đều có điểm lợi và các khiếm khuyết, chưa thể có một hệ thống hoàn hảo ở bất kỳ nước nào. Tuy nhiên, để hướng đến một hệ thống bầu cử tốt hơn, ít khiếm khuyết hơn, khiến cho người dân phát huy được quyền làm chủ của mình lớn hơn, cần được đúc rút từ một số kinh nghiệm từ các nước trên thế giới từ đó áp dụng, hoàn thiện hệ thống bầu cử tại Việt Nam:
  • Cần chú ý tính bao gồm và đại diện của các nhóm sắc tộc thiểu số, yếu thế và phụ nữ để được bầu vào cơ quan lập pháp, đặc biệt tại những nước đang phát triển, những nước nghèo bởi hệ quả trực tiếp của việc loại bỏ các nhóm này ra khỏi quyền lực nhà nước tại những nước kém phát triển là chia rẽ xã hội, gây xung đột.
  • Hệ thống bầu cử phải được thiết kế sao cho cử tri thấy rằng, bầu cử đem lại cho họ một biện pháp gây ảnh hưởng đối với chính phủ và các chính sách của chính phủ, rằng lá phiếu của họ thực sự có ý nghĩa tác động đến đời sống chính trị và quyền lực nhà nước, trực tiếp thông qua kết quả bầu cử. Điều đó thể hiện tính dân chủ và chủ quyền của nhân dân được thực thi.
  • Thiết kế hệ thống bầu cử sao cho đơn giản và rõ ràng, như vậy sẽ tăng tính hiệu quả và bền vững, dễ được cử tri và các nhà chính trị chấp nhận. Hệ thống bầu cử càng phức tạp thì càng khó hiểu, và do đó, làm cử tri thiếu tin tưởng vào kết quả.
  • Khi thiết kế hệ thống bầu cử, phải khuyến khích tư duy đổi mới, thay đổi cách làm cũ đối với những vấn đề khiếm khuyết cụ thể đã được xác định rõ ràng; chú ý các nhân tố thuộc về hoàn cảnh cụ thể và tạm thời;
  • Hệ thống bầu cử có ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống chính trị, giúp tạo lập sự ổn định, tăng cường trách nhiệm giải trình của chính phủ… nhưng cũng không phải là thần dược để chữa tất cả các căn bệnh của hệ thống chính trị. Những khiếm khuyến lớn của hệ thống bầu cử hiện tại không phải có thể dễ dàng sửa đổi bởi hệ lụy của việc sửa đổi đó là sự thay đổi cả môi trường chính trị và những hệ quả ngoài mong muốn (phản ứng phụ). Do đó, bất cứ sự thay đổi nào cũng cần tìm kiếm những kinh nghiệm quốc tế của các nước láng giềng, các nước có hoàn cảnh tương tự để so sánh, đánh giá một cách thấu đáo những tác động của một hệ thống mới.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hang còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group