Thời gian mất mát vì chờ đợi cầu cảng tính là thời gian lầm hàng (Time lost waiting for berth to count as laytime) là thuật ngữ này còn được gọi là “time lost waiting for berth to count as loading or discharging time”.

Thời gian mất mát vì chờ đợi cầu cảng tính là thời gian bốc hoặc dỡ hàng (Time lost waiting for berth to count as loading or discharging time) là nếu không có cầu cảng sẵn sàng dành cho việc bốc hoặc dỡ hàng và tàu không thể đưa “thông báo sẫn sàng” tại nơi tàu neo đậu chờ cầu cảng (waiting place) thì thời gian tàu bị mất mát sẽ được tính như thể là thời hạn làm hàng (laytime) đã bắt đầu tính hoặc được tính là thời gian bị phạt nếu thời hạn làm hàng đã hết. Thời gian chờ đợi nói trên sẽ ngừng tính khi có cầu cảng sẵn sàng để bốc hoặc dỡ hàng. Khi tàu đến nơi có thể đưa “thông báo sẵn sàng” thì thời hạn làm hàng hoặc thời gian bị phạt sẽ tiếp tục tính sau khi đưa “thông báo sẵn sàng”. Nếu thời hạn làm hàng vẫn còn thì thời hạn làm hàng sẽ tiếp tục tính sau khi hết thời gian thông báo (notice time) nêu trong hợp đồng. Thuật ngữ này còn được gọi là “time lost waiting for berth to count as laytime”.