1. Sự cần thiết thống nhất quan điểm về pháp điển hóa

Việc tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về cùng một vấn để trong nghiêm cứu khoa học luôn là một thực tế có tính phổ biến. Lý do chủ yếu của điều này là vì mỗi vấn để có thể được tiếp cận ở những góc độ khác nhau, với sự chi phối của mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu V.V.. Tuy vậy, sự không thống nhất về mặt khái niệm khi bắt tay vào thực hiện một công việc cụ thể lại là nguyên nhân của những hành động thiếu nhất quán, cản trở việc hình thành những bước đi mạch lạc, đúng đắn để đạt mục tiêu để ra một cách hiệu quả, với chất lượng cao nhất. Ở nước ta, do thiếu chủ thuyết và phương pháp luận khoa học – thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, hệ thống hóa, pháp điển hóa nói riêng, đồng thời, chưa hình thành được quan điểm chính thống, chủ đạo về các vấn đề rất cơ bản của pháp điển hóa như đã trình bày ở trên nên dẫn đến tình trạng “vừa thiết kế vừa thi công”. Mặt khác, do thiếu nhận thức chung, thống nhất về pháp điển hóa, hệ thống hóa pháp luật nên các cơ quan, tổ chức và cá nhân hiện nay đang thực hiện các công việc này theo các cách thức rất khác nhau, vừa tản mạn vừa kém hiệu quả.

Do vậy, việc thống nhất về mặt khái niệm phải là tiền để đầu tiên khi bắt tay vào công việc pháp điển hóa hệ thống pháp luật Việt Nam, từ đó, có quyết tâm và lộ trình hợp lý để thực hiện công việc khó khăn này.

2. Hệ thống hóa pháp luật

Hệ thống hóa pháp luật là việc các cơ quan nhà nước tiến hành soát xét các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách, định kỳ sắp xếp lại các văn bản quy phạm pháp luật theo thứ bậc hiệu lực pháp lý từ cao xuống tháp; trong trường hợp phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước thì tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành nếu văn bản đó thuộc thẩm quyền ban hành của mình hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.

Hệ thống hóa pháp luật được tiến hành thống qua hai hình thức chủ yêu là tập hợp hóa và pháp điển hóa.

3. Tập hợp hóa pháp luật

Tập hợp hóa là hoạt động sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật (hay các quy phạm pháp luật) theo một trật tự nào đó, có thể theo trình tự thời gian ban hành, theo vần chữ cái hoặc theo từng vấn đề, thậm chí theo một trật tự khác tùy thuộc mục đích của chủ thể tiến hành tập hợp. Tập hợp hóa không làm thay đổi nội dung văn bản, không bô’ sung những quy định mới mà chỉ loại bỏ những quy phạm đã hết hiệu lực và làm rõ những mâu thuẫn, chồng chéo với văn bản quy phạm pháp luật khác.

4. Pháp điển hóa

Pháp điển hóa là việc tiến hành các hoạt động tập hợp, rà soát, so sánh, đối chiếu, căn chỉnh để loại bỏ những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, đã hết hiệu lực thi hành, hệ thống hóa theo những tiêu chí xác định để xuất bản thành những bộ pháp điển trong từng ngành, lĩnh vực nhất định.

Pháp điển hóa, theo cách hiểu này, là hình thức cao nhất của hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật và là pháp điển hóa hình thức. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò của hoạt động pháp điển hóa truyền thống với việc ra đời rất nhiều bộ luật có giá trị trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành, nhưng trong điều kiện hiện nay, khi các mối quan hệ xã hội thay đổi liên tục, nhanh chóng đòi hỏi nhà lập pháp phải có những phản ứng tức thời và trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, người dân chỉ biết luật, tuân thủ và làm theo luật thì việc chuẩn bị xây dựng những luật, bộ luật đồ sộ thường gặp nhiều khó khăn và tốn rất nhiều thời gian; quy trình thảo luận, xem xét, thông qua cũng như sửa đổi, bổ sung các quy định trong luật, bộ luật tại Quốc hội hoàn toàn không đơn giản. Do đó, các đạo luật muốn đảm bảo tính linh hoạt thì thường dừng lại ở mức độ luật khung, thiếu các quy định chi tiết, rõ ràng. Điều này dẫn đến việc tổn tại quá nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành luật và nhiều khi ý nghĩa thực tiễn của các văn bản hướng dẫn thi hành vượt qua cả văn bản luật, làm trầm trọng thêm tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật.

Xuất phát từ thực tiễn đó, có thể thấy phương pháp tiếp cận vấn đề pháp điển hóa ở Việt Nam dưới góc độ kỹ thuật nhằm làm cho hệ thống pháp luật hiện hành ngày càng trở nên tiện dụng, thân thiện với người dân là hiệu quả và có tính khả thi hơn cả với mặt bằng trình độ làm luật của Việt Nam ở thời điểm hiện nay. Trong điều kiện các quan hệ xã hội, tức là các cơ sở hạ tầng còn luôn biên động, cách làm này sẽ bảo đảm linh hoạt, nhanh chóng phù hợp, thích nghi với thực tiễn đang thay đổi.

5. Phân biệt pháp điển hóa và tập hợp hóa

– Tập hợp hoá pháp luật là thu thập, sắp xếp các quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật theo một trật tự nhất định để làm hình thành nên một tập hợp các quy định của pháp luật. Việc tập hợp hoá pháp luật không làm thay đổi nội dung và hình thức của quy phạm pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật được thu thập, không làm xuất hiện các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và các khái niệm pháp lý mới, bởi vì các quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật khi đưa vào tập hợp phải được sao chép nguyên văn.

– Pháp điển hoá pháp luật là hình thức hệ thống hoá pháp luật, trong đó cơ quan nhà nước có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo đối tượng điều chỉnh hay theo chủ đề; loại bỏ những mâu thuẫn chồng chéo, những quy định lỗi thời, lạc hậu; sửa đổi những quy định chưa phù hợp; xây dựng, bổ sung những quy định mới, từ đó xây dựng nên một bộ pháp điển hoặc ban hành một bộ luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy phạm pháp luật cũ để làm cho pháp luật thống nhất, hợp lý và phát triển hơn. Nếu xây dựng bộ pháp điển theo chủ đề (pháp điển hóa về hình thức) thì việc pháp điển hóa sẽ không làm thay đối nội dung và hình thức của các quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được tập hợp. Nếu xây dựng bộ luật mới (pháp điển hóa về nội dung) thì việc pháp điển ho á có thể làm thay đổi nội dung và hình thức của các quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật được thu thập, có thể làm xuất hiện thêm các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và các khái niệm pháp lý mới

6. Công tác pháp điển hóa ở Việt Nam

Ở Việt Nam, pháp điển hóa không phải bây giờ mới được thực hiện vì trong lịch sử nước ta, dưới các triều đại phong kiến Việt Nam đã có các công trình mang tính chất pháp điển hóa như Bộ hình thư thời nhà Lý (1010), Bộ Hình luật thư thời nhà Trần, Quốc triều hình luật thời nhà Lê, Bộ luật Gia Long thời nhà Nguyễn. Nó chứng tỏ rằng ông cha ta đã nhận thức được pháp điển hóa là một công việc rất cần thiết cho một quốc gia, một chế độ nhằm đảm bảo cho một nền thịnh trị ở một quốc gia. Công tác pháp điển hóa luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và trên thực tế đã đạt được một số thành tựu nhất định bởi một trong những mục tiêu của chiến lược lập pháp là phải làm tốt công tác pháp điển hóa. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết; cùng một lĩnh vực có rất nhiều văn bản, do nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau ban hành. Điều đó dẫn tới tình trạng nhiều lúc không biết đâu là văn bản chính và sẽ thực thi theo văn bản nào. Do đó, đòi hỏi chúng ta phải làm và làm tốt công tác pháp điển hóa, góp phần làm cho hệ thống pháp luật được minh bạch, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Ngày 16-4-2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho công tác xây dựng Bộ pháp điển. Theo đó, pháp điển là việc cơ quan nhà nước rà soát, tập hợp, sắp xếp các quy phạm pháp luật đang còn hiệu lực trong các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành để xây dựng Bộ pháp điển. Bộ pháp điển gồm 45 chủ đề, mỗi chủ đề có một hoặc nhiều đề mục (có với 265 đề mục thuộc 45 chủ đề). Pháp lệnh quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong công tác pháp điển như sau:
– Trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật về pháp điển;
– Hướng dẫn việc thực hiện pháp điển; đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác pháp điển;
– Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện pháp điển của các cơ quan thực hiện pháp điển;
– Xử lý theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xử lý những vấn đề vướng mắc liên quan đến việc thực hiện pháp điển;
– Lập Đề án xây dựng Bộ pháp điển trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
– Xây dựng Trang thông tin điện tử pháp điển; duy trì thường xuyên Bộ pháp điển trên Trang thông tin điện tử pháp điển; quản lý, ban hành quy định về huy động nguồn lực xã hội trong việc xuất bản Bộ pháp điển bằng văn bản;
– Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về công tác pháp điển.

7. Công tác tập hợp hóa pháp luật ở Việt Nam

Để thực hiện tốt công tác pháp điển hóa thì trước hết phải làm tốt công tác tập hợp hóa. Bởi lẽ tập hợp hóa không chỉ tạo cơ sở tiền đề cho công tác pháp điển hóa mà các “tuyển tập văn bản” theo từng nghành ,lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật này còn có ý nghĩa rất lớn giúp các cơ quan tư pháp tra cứu ,tìm kiếm văn bản trong quá trình thực thi pháp luật. Tuy nhiên ,cũng giống như pháp điển hóa, công tác hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật vẫn chưa được quan tâm đúng mức, việc tra cứu, tìm kiếm văn bản vì thế gặp rất nhiều khó khăn.Thông thường thì việc khai thác văn bản được lấy từ những nguồn khác như:

Công báo: Đây là ấn phẩm thông tin chính thức của Nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý, đăng văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế đã có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các văn bản pháp luật khác theo quy định. Tuy nhiên, Công báo không phải là kết quả của công tác tập hợp hóa, đó chỉ là hình thức công bố chính thức văn bản pháp luật. Hơn nữa, công báo vẫn chưa được phổ cập rộng rãi; công báo chủ yếu đăng văn bản pháp luật của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang Bộ và địa phương. Đối với văn bản của các cơ quan tư pháp thì hầu như chỉ đăng tải các văn bản liên ngành, còn văn bản của từng ngành còn hạn chế.

– Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, trên thị trường đang lưu hành khá nhiều loại đĩa CD về pháp luật, mỗi đĩa CD tập hợp một số lượng lớn văn bản văn bản pháp luật của các cơ quan Nhà nước ở Trung ương từ những năm 1945 đến nay. Các đĩa CD về ưu điểm là dễ khai thác, dễ tra cứu. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số hạn chế như không phải ai cũng sử dụng máy tính, trên thực tế các đĩa CD về pháp luật còn khá nhiều lỗi phần mềm và các lỗi ngôn ngữ (dấu chấm,dấu phẩy …) rất dễ gây ra cách hiểu và cách vận dụng khác nhau.

– Một hình thức khác nữa là sự tập hợp hóa của các cá nhân, đơn vị tự mình đứng ra tập hợp lại. Hình thức này sẽ đưa được pháp luật vào trong nhân dân nhanh hơn, dễ dàng hơn. Song ở đây cũng bộc lộ khá nhiều nhược điểm: do một cá nhân, đơn vị làm nên khó có thể tập hợp được hết các loại văn bản mà chỉ có các văn bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu của người đứng ra làm mới được tập hợp…
LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)