Gần đây nhất tôi phát hiện họ có con chung trong khi cô gái kia vẫn đang ở cùng chồng. Trong năm qua anh ta cũng không hề có trách nhiệm sản sẻ với tôi tiền nợ nần, sinh hoạt Phí hàng ngày cho 2 con. Tài sản chung chúng tôi có gồm 01 mẫu đất khoảng 02 tỷ đồng và một căn nhà trị giá 01 tỷ đồng. Ngoài ra còn khoản nợ Ngân hàng 1 tỷ đồng với tài sản thế chấp cả nhà và đất. Tôi viết đơn ly hôn nhưng chồng tôi không chịu kí.
Vậy tôi muốn hỏi:

1. Thủ tục ly hôn đơn phương nhanh nhất và việc phân chia tài sản chung như thế nào?

2. Nếu sau ly hôn 2 cháu ở với tôi thì tôi có được chia tài sản nhiều hơn không?

3. Việc 2 người quan hệ bất chính có con chung nếu tôi kiện họ sẽ bị xử phạt như thế nào?

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật LVN Group

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật LVN Group. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:

1. Cơ sở pháp lý:

  • Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
  • Luật hôn nhân và gia đình 2014;
  • Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

2. Luật sư tư vấn:

2.1 Thủ tục ly hôn đơn phương và chia tài sản chung:

Ly hôn là quyền của mỗi bên trong quan hệ hôn nhân. Do đó, một trong hai bên đều có quyền nộp đơn ly hôn đơn phương tại tòa án có thẩm quyền.Thẩm quyền giải quyết ly hôn đơn phương do Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc.

Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện

1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:

a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;…

Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;…”

Bên cạnh đó, Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thời hạn xét xử là 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, đối với những vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với vụ án thuộc trường hợp này.

Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình quy định khi ly hôn tài sản chung của hai vợ chồng sẽ được chia theo nguyên tắc như sau:

“1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.”

Như vậy, về nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:

– “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

– “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

– “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.

– “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.

Như vậy, khi ly hôn nếu chồng của Quý khách không đồng ý chia tài sản, nợ chung hoặc giữa hai người không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì Quý khách có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung theo hướng dẫn trên.

2. 2. Chia tài sản chung nhiều hơn nếu nuôi con?

Về phần con chung, Quý khách có 02 người con đều trên 7 tuổi. Trong quá trình giải quyết thủ tục ly hôn, Tòa án sẽ xem xét nguyện vọng của 02 người con, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con để giao con cho một hoặc mỗi bên trực tiếp chăm sóc, nếu hai vợ chồng không tự thỏa thuận được. Trường hợp sau khi ly hôn Quý khách được nuôi cả 02 con thì có quyền yêu cầu chồng trợ cấp nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Trong trường hợp phân chia căn nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng làm ảnh hưởng tới chỗ ở của người còn lại thì căn cứ Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình:

Điều 63. Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Việc phân chia tài sản sẽ căn cứ vào những quy định trích dẫn ở câu 1, nếu các con không có công sức đóng góp gì trong khối tài sản chung của vợ chồng.

2.3. Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng

Khoản 35 Điều 1 Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định về hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng:

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;

c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;…”

Hay theo quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”

Như vậy, dấu hiệu “chung sống như vợ chồng” là dấu hiệu bắt buộc của hành vi phạm tội này. Nếu chồng của Quý khách có hành vi chung sống như vợ chồng với người thứ ba, những người xung quanh đều biết việc hai người đó sống cùng nhau, hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc sống chung,… thì tùy mức độ vi phạm mà chồng của Quý khách và người thứ ba kia có thể phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính theo trích dẫn trên. Nếu có đủ bằng chứng Quý khách có quyền tố cáo/trình báo tới cơ quan công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chồng của Quý khách hoặc người thứ ba đang sinh sống. Nhưng nếu không có đủ bằng chứng chứng minh về việc chồng của Quý khách hoặc người thứ ba vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng thì Quý khách cũng có thể phải chịu trách nhiệm về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật Hôn nhân – Công ty luật LVN Group