1. Thủ tục nhận con nuôi cho người nước ngoài ?

Luật sư cho em hỏi, bạn em là người nước ngoài (singapore) muốn nhận nuôi 1 bé trai làm con nuôi vì mẹ bé đi làm xa và không có thời gian chăm sóc bé. Bạn em hiện đang là giáo viên tại trường mà bé trai theo học và muốn nhận nuôi và chăm sóc cho bé, hiện bé đang học lớp 3. Và đã có sự đồng ý từ phía mẹ của bé.
Vậy em xin hỏi trong trường hợp này bạn của em và mẹ của bé cần phải hoàn thành những thủ tục pháp lý gì để bạn em có thể nhận nuôi bé trai kia một cách hợp pháp ?
Em cám ơn!

Luật sư trả lời:

* Khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010 :

1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

d) Có tư cách đạo đức tốt.

* Hồ sơ của người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ, tài liệu sau đây:

– Đơn xin nhận con nuôi;

– Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;

– Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam;

– Bản điều tra về tâm lý, gia đình;

– Văn bản xác nhận tình trạng sức khỏe;

– Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản;

– Phiếu lý lịch tư pháp;

– Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;

– Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật nuôi con nuôi.

=> Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02 bộ

* Hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi nước ngoài bao gồm:

– Giấy khai sinh;

– Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp;

– Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng chụp không quá 06 tháng;

– Văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em;

=> Hồ sơ này được lập thành 03 bộ

Hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi được nộp cho Sở Tư pháp nơi người được giới thiệu làm con nuôi thường trú. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của những người quy định.Khi xét thấy người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo quy định của Luật này thì Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi; trường hợp từ chối thì phải trả lời cho người nhận con nuôi bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Ngay sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp, người được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ đối với người được xin nhận làm con nuôi từ gia đình và gửi quyết định cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi. Trường hợp người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi mà không có lý do chính đáng thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hủy quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi.

Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và đại diện Sở Tư pháp.

Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại, gọi ngay số: 1900.0191 để được giải đáp. Trân trọng./.

2. Xin được tư vấn về việc làm con nuôi người Đài Loan ?

Kính chào các vị Luật sư của LVN Group tư vấn! Em xin được phép hỏi và nhờ các vị tư vấn giúp em về một vấn đề sau: Em tên là NPH, em sinh ngày 08/04/1987 (28 tuổi), độc thân, gia đình có 6 Anh chị em, và em là con út trong gia đình.

Hiện Em đang hợp tác xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Nơi xứ người em có quen thân với chú người Đài, năm nay chú 50 tuổi và vẫn độc thân, chú làm quản lý cho một doanh nghiệp gia đình, chú muốn nhận em làm con nuôi. Vậy em xin hỏi các vị:

1) Thủ tục và điều kiện như thế nào để hợp pháp?

2) hiện tại em đang làm việc theo hợp đồng lao động tại Đài Loan mà chưa hết hợp đồng liệu em và ba nuôi có thể hoàn tất thủ tục nhận con nuôi và thủ tục như thế nào?

Rất mong nhận được sự tư vấn từ các vị! Trân trọng cảm ơn!

Người gửi: NP Hay

Xin được tư vấn về việc làm con nuôi người Đài Loan ?

Tư vấn thủ tục nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài:1900.0191

Trả lời:

Tại khoản 1 Điều 29 Luật nuôi con nuôi 2010 có quy định:

“Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này”.

Theo đó, người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau:

– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

– Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

– Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

– Có tư cách đạo đức tốt.

Và không thuộc một trong các trường hợp sau:

– Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

– Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

– Đang chấp hành hình phạt tù;

– Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Người muốn nhận bạn là con nuôi thường trú tại Đài Loan và là người Đài Loan. Chú ấy năm nay 50 tuổi, vẫn độc thân và đang làm quản lý cho một doanh nghiệp gia đình. Bạn 28 tuổi. Người chú này hơn bạn 22 tuổi, có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Như vậy người chú này đã đủ điều kiện để nhận con nuôi.

Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định những người sau có thể được nhận làm con nuôi, bao gồm:

1. Trẻ em dưới 16 tuổi;

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

– Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

– Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

Bạn năm nay 28 tuổi, bạn không thuộc trường hợp được nhận làm con nuôi. Như vậy, với những thông tin mà bạn cung cấp thì giữa bạn và người chú nuôi này không thể xuất hiện quan hệ cha con nuôi được.

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty chúng tôi. Trân trọng!

3. Tư vấn thủ tục và điều kiện nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài ?

Thưa Luật sư của LVN Group, Tôi có 02 con (01 bé gái sinh năm 2003 và 01 bé trai sinh năm 2008) Tôi muốn cho 02 bé làm con nuôi của chị họ tôi hiện đang định cư tại Mỹ có được không? Điều kiện và thủ tục cho nhận con nuôi ở Mỹ và Việt Nam như thế nào?
Rất mong nhận được sự tư vấn của Luật LVN Group. Tôi xin thành thật cảm ơn.

Luật sư tư vấn:

Về điều kiện nhận nuôi con nuôi

Trường hợp của bạn do chị họ của bạn đang định cư tại Mỹ nên việc chị họ của bạn nhận nuôi 2 con của bạn như vậy là việc nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Để có thể được nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài 2 bên sẽ phải đáp ứng các điều kiện theo quy định sau đây:

Quy định tại Điều 29 và Điều 14 Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:

Điều 29. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này.

2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú.

Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

d) Có tư cách đạo đức tốt.

2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:

a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

c) Đang chấp hành hình phạt tù;

d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.

Theo quy định trên, chị họ của bạn là người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Mỹ) nên sẽ phải đáp ứng các điều kiện theo luật của nước mà chị họ của bạn đang thường trú và quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2012 của Việt Nam. Hồ sơ xin nhận con nuôi bao gồm Hồ sơ của người nhận con nuôi và Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi. Bạn sẽ phải chuẩn bị các giấy tờ, tài liệu theo quy định của Điều 31 Luật Nuôi con nuôi năm 2010.

– Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi theo quy định tại điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:

Điều 8. Người được nhận làm con nuôi

1. Trẻ em dưới 16 tuổi.

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

Theo thông tin bạn cung cấp thì 2 con của bạn lầm lượt 12 tuổi và 7 tuổi nên đã đáp ứng đủ các điều kiện để được nhận nuôi con nuôi
Về thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài căn cứ theo quy định tại điều 31 Luật nuôi con nuôi 2010 như sau:

Điều 31. Hồ sơ của người nhận con nuôi

1. Hồ sơ của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có các giấy tờ, tài liệu sau đây:

a) Đơn xin nhận con nuôi;

b) Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;

c) Văn bản cho phép được nhận con nuôi ở Việt Nam;

d) Bản điều tra về tâm lý, gia đình;

đ) Văn bản xác nhận tình trạng sức khoẻ;

e) Văn bản xác nhận thu nhập và tài sản;

g) Phiếu lý lịch tư pháp;

h) Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân;

i) Tài liệu chứng minh thuộc trường hợp được xin đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này.

2. Các giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g và h khoản 1 Điều này do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú lập, cấp hoặc xác nhận.

3. Hồ sơ của người nhận con nuôi được lập thành 02 bộ và nộp cho Bộ Tư pháp thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của nước nơi người nhận con nuôi thường trú; trường hợp nhận con nuôi đích danh quy định tại khoản 2 Điều 28 của Luật này thì người nhận con nuôi có thể trực tiếp nộp hồ sơ cho Bộ Tư pháp.

Như vậy, chị họ của bạn sẽ căn cứ theo quy định trên để hoàn thiện thủ tục nhận nuôi con nuôi phù hợp với quy định của pháp luật

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số:1900.0191hoặc gửi qua email:Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Emailđể nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.

4. Thủ tục nhận con nuôi đối với người nước ngoài ?

Em năm nay 31 tuổi là người Việt Nam sang Đài Loan làm việc được 6 năm và ở Việt Nam em cũng đã có gia đình và một con gái Em xin hỏi nếu có người Đài Loan muốn nhân em làm con nuôi thì có được không ?.Và nếu được thì em phải làm nhưng thủ tục như thế nào?.

Em xin chân thành cảm ơn!

Người gửi: B.H

Tư vấn thủ tục và điều kiện nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài ?

Luật sư tư vấn luật hôn nhân về con nuôi, gọi:1900.0191

Trả lời:

Điều 8, Luật nuôi con nuôi 2010 về người được nhận làm con nuôi

1. Trẻ em dưới 16 tuổi

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

Như vậy với hoàn cảnh của bạn thì bạn không đủ điều kiện để trờ thành con nuôi theo pháp luật Việt Nam, còn đối với việc bạn đang đang định cư ở Đài Loan và người Đài Loan muốn nhận bạn làm con nuôi thì phải xét theo pháp luật nước đó

Trên đây là thư tư vấn của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ emailTư vấn pháp luật hôn nhân gia đình miễn phí qua Emailhoặc qua Tổng đài tư vấn: 1900.0191.

5. Dự án Luật nuôi con nuôi và vấn đề lồng ghép giới ?

Trên cơ sở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 47) và Luật bình đẳng giới (Điều 21 và Điều 22), trong quá trình soạn thảo Luật nuôi con nuôi, Ban soạn thảo cũng đã trao đổi về vấn đề có hay không có vấn đề giới, nói cách khác là yêu cầu thiết lập sự bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực nuôi con nuôi, cũng như tác động của việc thi hành Luật sau này đối với vấn đề bình đẳng nam nữ.

Sau nhiều lần trao đổi, Ban soạn thảo đã đi đến nhất trí rằng, dự án Luật nuôi con nuôi không có vấn đề nổi cộm về bình đẳng nam nữ. Bởi những lý do cơ bản sau:

Dự án Luật nuôi con nuôi và vấn đề lồng ghép giới

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

Thứ nhất, xét một cách tổng thể, thì nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội mang tính nhân đạo, làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con lâu dài, ổn định giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm người được nhận làm con nuôi (trẻ em không có gia đình) được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục một cách tốt nhất trong môi trường gia đình. Vì thế, mọi việc nuôi con nuôi đối với trẻ em, không kể là trẻ em trai hay trẻ em gái, đều phải hướng đến mục đích đó. Dự thảo Luật nuôi con nuôi đã quy định theo hướng như vậy. Còn xét về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, thì dự thảo Luật điều chỉnh một cách chung nhất đối với quan hệ nuôi con nuôi liên quan đến cả hai giới nam và nữ, không thiên về một giới cụ thể nào. Về nguyên tắc, mọi cá nhân hay cặp vợ chồng, nếu có đủ điều kiện thì đều được nhận nuôi con nuôi; mọi trẻ em, không phân biệt nam nữ, nếu có đủ điều kiện và đúng đối tượng, đều có thể được nhận làm con nuôi. Nội dung xuyên suốt của dự thảo Luật đã quy định trên nguyên tắc bình đẳng như vậy.

Thứ hai, theo quy định tại Điều 47 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Điều 21 Luật bình đẳng giới, trên quan điểm yêu cầu lồng ghép vấn đề bình đẳng giới, Ban soạn thảo thấy rằng, dự thảo Luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi chủ yếu đối với trẻ em – đối tượng từ 15 tuổi trở xuống, chủ yếu là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, không có gia đình – thuộc cả hai giới nam và nữ. Với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho trẻ em, không kể trẻ em nam hoặc trẻ em nữ, dự thảo Luật (Điều 14 và Điều 30) đã đưa ra quy định chung về điều kiện và đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi. Quy định này được áp dụng cho trẻ em thuộc cả hai giới mà không có sự phân biệt. Theo đó, khi trẻ em có đủ điều kiện và thuộc diện được cho làm con nuôi, thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết cho trẻ em làm con nuôi theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà không đặt vấn đề ưu tiên cho trẻ em trai hay trẻ em gái được làm con nuôi.

Tham khảo pháp luật của các nước cho thấy, không nước nào phân biệt điều kiện, trình tự thủ tục để áp dụng riêng đối với trẻ em trai hay trẻ em gái khi được nhận làm con nuôi, cũng không có quy định ưu tiên cho trẻ em thuộc một giới cụ thể nào. Tương tự như vậy, pháp luật các nước cũng không có quy định phân biệt về điều kiện nuôi con nuôi đối với người nhận con nuôi là phụ nữ hay đàn ông, cũng như không có quy định thuận lợi hay ưu tiên hơn khi giải quyết việc nuôi con nuôi cho người nhận con nuôi độc thân thuộc phái nam hay phái nữ. Giống như các lĩnh vực khác, mọi quy định về nuôi con nuôi đều được áp dụng chung trên nguyên tắc bình đẳng đối với mọi công dân.

Thứ ba, xét về phía người nhận con nuôi, dự thảo Luật cũng không đưa ra quy định để áp dụng riêng đối với người nhận con nuôi độc thân là đàn ông hay phụ nữ, mà áp dụng chung cho mọi đối tượng, khi có đủ điều kiện và nguyện vọng nhận nuôi con nuôi. Như vậy, Luật nuôi con nuôi thực sự tạo ra cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người, không kể đàn ông hay phụ nữ, nếu có đủ điều kiện và nguyện vọng, đều được nhận trẻ em làm con nuôi.

Có ý kiến cho rằng, dự thảo Luật cần có quy định riêng để áp dụng đối với người nhận con nuôi là phụ nữ đơn thân có hoàn cảnh khó khăn không có khả năng sinh con. Ban soạn thảo thấy rằng, vấn đề bảo đảm quyền làm mẹ của phụ nữ nói chung, quyền nuôi con nuôi của phụ nữ thuộc đối tượng kể trên nói riêng, nhất là việc ưu tiên, miễn, giảm một số điều kiện, thủ tục nào đó – là những vấn đề liên quan đến chính sách xã hội, cũng như các biện pháp hỗ trợ để bảo đảm thi hành Luật sau này – thì nên để các văn bản hướng dẫn của Chính phủ hoặc Bộ chủ quản quy định, như thế hợp lý hơn.

Thứ tư, trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, cũng phải bảo đảm quyền được thể hiện ý kiến, quyền được lựa chọn của trẻ em để tránh tư tưởng áp đặt từ phía người lớn theo kiểu “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy”; đồng thời cũng phải tính đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người nhận con nuôi. Do đó, nếu người nhận con nuôi thể hiện nguyện vọng chính đáng là muốn nhận trẻ em thuộc một giới tính nào đó (nam hoặc nữ) làm con nuôi, thì nguyện vọng đó cũng phải được tôn trọng mà không nên coi đó là sự phân biệt đối xử.

Thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong những năm qua cho thấy, đại đa số các gia đình cha mẹ nuôi người nước ngoài không nêu ra yêu cầu cụ thể về giới tính của trẻ em cần xin nhận làm con nuôi, mà họ chỉ nêu nguyện vọng chung chung là “muốn nhận một trẻ em nam hoặc nữ làm con nuôi”. Nhưng thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước cho thấy, người xin nhận con nuôi thường tự liên hệ (với gia đình, cơ sở y tế hoặc cơ sở nuôi dưỡng) để xin trẻ em làm con nuôi, sau đó đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Trong những trường hợp này, họ cũng thường quan tâm đến giới tính của trẻ em cần xin nhận làm con nuôi. Do đó, Ban soạn thảo thấy rằng, ở đây cần có sự dung hòa lợi ích chính đáng giữa việc “tìm gia đình cho trẻ em” với việc “giới thiệu trẻ em cho gia đình cha mẹ nuôi”. Nếu dự thảo Luật quy định nghiêm cấm việc lựa chọn giới tính khi nhận trẻ em làm con nuôi, thì e rằng quá cứng và không phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống đạo lý người Việt Nam, cũng như tâm tư, nguyện vọng chính đáng của người nhận con nuôi trong nước. Bởi nếu chỉ căn cứ vào nguyện vọng của người nhận con nuôi là muốn nhận trẻ em thuộc một giới tính cụ thể nào đó làm con nuôi mà kết luận là “có sự phân biệt về giới” để từ chối giải quyết việc nuôi con nuôi, thì hoàn toàn không có cơ sở thuyết phục.

Trong các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước, cũng như Công ước Lahay về nuôi con nuôi mà Nhà nước ta đang chuẩn bị tham gia, đều không có quy định về vấn đề này.

Từ những lý do trên đây, Ban soạn thảo thấy rằng, việc bảo đảm cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con nuôi, được chăm sóc, nuôi dưỡng, trưởng thành trong môi trường gia đình, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em – là mục đích cơ bản mang tính nhân đạo sâu sắc của dự Luật nuôi con nuôi. Báo cáo thẩm tra chính thức của Ủy ban pháp luật của Quốc hội về dự án Luật nuôi con nuôi cũng đồng tình với quan điểm này và cũng không đề cập đến vấn đề giới.

Tuy vậy, Bộ Tư pháp thấy rằng, mặc dù không có vấn đề nổi cộm về giới, nhưng để bảo đảm chặt chẽ hơn và thực hiện tốt hơn nguyên tắc bình đẳng trong lĩnh vực nuôi con nuôi, thì có thể bổ sung quy định có tính nguyên tắc vào khoản 2 Điều 3 như sau: “…Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Nguyên tắc này sẽ là cơ sở cho việc xem xét áp dụng các điều kiện, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi đối với người nhận con nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi một cách công bằng. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của Ủy ban pháp luật của Quốc hội, có thể bổ sung một số căn cứ quy định tại Điều 13 (các hành vi bị cấm), đặc biệt căn cứ quy định tại khoản 3 “việc nuôi con nuôi xuất phát từ định kiến giới, dẫn đến sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ” làm cơ sở để đề nghị Tòa án nhân dân quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đây được coi là biện pháp mạnh nhằm bảo đảm việc nuôi con nuôi được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ.

Bên cạnh đó, hiện nay Bộ Tư pháp (Cục Con nuôi) cũng đang tiến hành xây dựng hệ cơ sở dữ liệu để thống kê, quản lý tình hình nuôi con nuôi trong và ngoài nước theo chuẩn mực của Công ước Lahay, trong đó có những tiêu chí thống kê cụ thể (về độ tuổi, giới tính, tình trạng nhân thân… của trẻ em) để phục vụ cho công tác quản lý, cũng như nghĩa vụ báo cáo quốc gia sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Công ước Lahay. Đây cũng là hoạt động nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác nghiên cứu, hoạch định chính sách và nâng cao biện pháp bảo đảm tốt hơn sự bình đẳng giới trong lĩnh vực nuôi con nuôi./.

(LVN GROUP FIRM: Biên tập.)