1. Thực hiện công việc không có uỷ quyền là gì?

Căn cứ Điều 574 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) quy định

“Điều 574. Thực hiện công việc không có ủy quyền

Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

2. Dấu hiệu nhận biết việc thực hiện công việc không có uỷ quyền

– Người thực hiện công việc hoàn toàn tự nguyện khi thực hiện công việc:

Yêu cầu này có thể được hiểu rằng, việc thực hiện công việc đó không phải là nghĩa vụ bắt buộc của người thực hiện công việc, tức là họ muốn thì thực hiện, không muốn có thể không thực hiện. Về hậu quả pháp lý, họ có thực hiện hay không thì cũng không phải gánh chịu bất cứ chế tài nào. Thực tế cho thấy, không có bất cứ căn cứ nào đưa ra để khẳng định rằng người thực hiện công việc có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó. Bởi vì giữa người có công việc và người thực hiện công việc không có bất cứ thỏa thuận nào, đồng thời pháp luật cũng không có bất cứ quy định nào buộc một người phải thực hiện một công việc cho người khác.

– Việc thực hiện công việc phải hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc:

Yêu cầu này được hiểu là tại thời điểm bắt đầu thực hiện công việc, người thực hiện công việc phải thể hiện ý chí thực hiện công việc nhằm mang lại lợi ích, hoặc ngăn chặn thiệt hại cho người có công việc. Tuy nhiên, rất khó để có thể chứng minh được điều này, vì khi kết thúc công việc, người thực hiện công việc có thể được hưởng những lợi ích nhất định (như tiền thù lao). Để xác định việc thực hiện công việc có hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc hay không thì phải xem xét hoạt động thực hiện công việc đó có mang tính chất chuyên nghiệp hay không. Nếu hoạt động thực hiện công việc cho người khác là một hoạt động thường xuyên tại một địa điểm nhất định với mong muốn nhận tiền thù lao thì không được coi là thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc. Nếu việc thực hiện công việc không được thực hiện thường xuyên, tức là việc thực hiện công việc xảy ra tức thì, thì có thể xác định việc thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của bên có công việc.

– Người có công việc không biết hoặc biết mà khong phản đối về việc thực hiện công việc.

Theo dấu hiệu này, tại thời điểm công việc được thực hiện, người có công việc không biết người khác thực hiện công việc cho mình, hoặc có thể họ biết nhưng không phản đối việc thực hiện công việc đó. Thông thường, khi công việc được thực hiện, người có công việc thường không biết đến việc người khác thực hiện công việc cho mình, bởi nếu họ biết thì đã tự mình thực hiện công việc, và bản thân người thực hiện công việc cũng sẽ không thực hiện công việc khi chính người có công việc cũng đang hiện hữu tại nơi có công việc cần thực hiện. Bản chất của việc thực hiện công việc không có ủy quyền là sự giúp đỡ người khác vượt qua những khó khăn, tránh những thiệt hại không đáng có. Do đó, nếu người có công việc có mặt hoặc biết việc người khác thực hiện công việc cho mình thì họ sẽ không phản đối nếu việc thực hiện công việc đó có lợi cho mình và bản thân mình không thể thực hiện được công việc đó tại thời điểm phải thực hiện công việc. Tuy nhiên, ngay cả khi người có công việc không thể thực hiện được công việc hoặc việc thực hiện công việc có thể mang lại lợi ích cho người có công việc nhưng nếu họ phản đối người khác thực hiện công việc của mình, thì người thực hiện công việc cũng không được thực hiện. Nếu họ cố tình thực hiện sẽ bị coi là vi phạm và phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

– Việc thực hiện công việc phải thực sự cần thiết.

Mặc dù việc thực hiện công việc có thể mang lại lợi ích cho người có công việc, người có công việc có thể không phản đối, và người thực hiện công việc hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc, nhưng việc thực hiện công việc phải thực sự cần thiết. Sự cần thiết của việc thực hiện công việc thể hiện ở chỗ nếu công việc không được thực hiện kịp thời sẽ gây thiệt hại cho người có công việc. Đây là yếu tố quan trọng và có vai trò quyết định việc thực hiện công việc có thuộc trường hợp không có ủy quyền hay không. Bởi thực tế, nhiều trường hợp một người thực hiện công việc của người khác khi họ không biết và sau đó yêu cầu thanh toán thù lao, nhưng bản thân người có công việc không đồng ý vì họ không có nhu cầu người khác phải thực hiện công việc cho mình. Do đó, người thực hiện công việc muốn nhận thù lao thì phải chứng minh mình đã thực hiện công việc giúp cho người có công việc không bị thiệt hại. Điều nà giúp ngăn chặn được hành vi lợi dụng quy định của pháp luật để trục lợi một cách không chính đáng.

3. Nghĩa vụ của các bên trong thực hiện công việc không có uỷ quyền

3.1. Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có uỷ quyền

Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền (Điều 575 BLDS 2015)

+ Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình.

+ Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc như công việc của chính mình; nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó.

+ Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc trụ sở của người đó.

+ Trường hợp người có công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.

+ Trường hợp có lý do chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục đảm nhận công việc thì phải báo cho người có công việc được thực hiện, người đại diện hoặc người thân thích của người này hoặc có thể nhờ người khác thay mình đảm nhận việc thực hiện công việc.

– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (Điều 577 BLDS 2015)

+ Khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực hiện.

+ Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vô ý mà gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì căn cứ vào hoàn cảnh đảm nhận công việc, người đó có thể được giảm mức bồi thường.

3.2. Nghĩa vụ của người có công việc được thực hiện

Nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện với người thực hiện công việc không được uỷ quyền được quy định tại Điều 576 BLDS 2015:

“Điều 576. Nghĩa vụ thanh toán của người có công việc được thực hiện

1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình.

2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối.”

4. Các trường hợp chấm dứt thực hiện công việc không có uỷ quyền

Việc thực hiện công việc không có ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:

– Theo yêu cầu của người có công việc được thực hiện.

– Người có công việc được thực hiện, người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện tiếp nhận công việc.

– Người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục thực hiện công việc theo quy định tại khoản 5 Điều 575 của Bộ luật này.

– Người thực hiện công việc không có ủy quyền chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân.

5. Ví dụ minh hoạ về tranh chấp trong việc thực hiện công việc không có uỷ quyền

A là bạn bè thân thiết với B. Do mẹ A ốm nặng, nên cả nhà A phải từ Bắc Giang lên Hà Nội để khám bệnh cùng mẹ. A chỉ kịp giao nhà cho B trông hộ. Trong thời gian A đi vắng, thấy vườn vải thiều A đã chín nên B đã thu hoạch và mang bán giúp. Tuy nhiên, khi B giao lại cho A số tiền bán quả thì A có ý cho rằng B đã bán rẻ số quả đó. Hai bên phát sinh mâu thuẫn. Trong tường hợp này phải giải quyết như thế nào với A và B?

Giải quyết vấn đề: Mâu thuẫn giữa A và B phát sinh từ việc B thực hiện công việc không có ủy quyền khi thu hoạch hộ A số quả chín. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa A và B cần dựa trên quy định trong các Điều 574, 575, 576 BLDS 2015. Cụ thể như sau:

Nghĩa vụ của B trong khi thực hiện công việc không có ủy quyền: Việc bán quả tuy không được A nhờ nhưng B đã tự nguyện làm vì lo cho A bị mất thu nhập từ số quả đó. Theo Điều 574 BLDS 2015 thì B đã thực hiện công việc không có ủy quyền. Đó là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối. Trong trường hợp này, B đã thực hiện công việc giúp A như thực hiện công việc của mình. B cũng đã làm đúng như ý định của A vì nếu A có mặt ở nhà thì cũng sẽ thu hoạch và bán số quả đó. Như vậy, việc làm của B trong trường hợp này là phù hợp với quy định tại khoản 1 và 2 ĐIều 575 BLDS 2015. Đó là, người thực hiện công việc có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình; nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định của người đó.

Về nghĩa vụ thanh toán của A là người có công việc được thực hiện: Điều 576 BLDS 2015 quy định, người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình. Trong trường hợp này dù cho là số tiền mà B bán quả không được nhiều như A mong muốn nhưng nếu B không thu hoạch và bán giúp số quả đó thì số quả đã bị hư hỏng và không thể bán được rồi.

Như vậy, trong tình huống trên, B không phải chịu trách nhiệm về thực hiện công việc không uỷ quyền làm trái ý A và không cần có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho A.