1. James Anderson và tiền thuê đất

Vấn đề thứ nhất về tiền thuê đất có thể gọi là “cổ điển” theo nghĩa thuật ngữ James Anderson (1739-1808) sử dụng. Ông là nông dân Scotland và là nhà phát minh “lưỡi cày Scotland”.

Anderson sinh ra tại Hermiston, Midlothian và khi còn trẻ đã tham dự các bài giảng về hóa học của William Cullen, tại Đại học Edinburgh . Năm 15 tuổi, sau khi cha mẹ qua đời, anh tiếp quản công việc đồng áng của gia đình.

Năm 1768, ông chuyển đến Aberdeenshire để quản lý trang trại rộng 1.300 mẫu Anh (530 ha) của Monkshill trên đất thuộc sở hữu của ông Udny của Udny theo hợp đồng thuê dài hạn được cấp cho ông nhằm mục đích chứng minh lợi ích của nền nông nghiệp được cải thiện .

Năm 1777, Anderson xuất bản cuốn Một cuộc điều tra về bản chất của các quy luật ngô , trong đó ông dự đoán lý thuyết về tiền thuê của David Ricardo. Một số nhà sử học tin rằng Anderson là nguồn gốc cho sự phê phán của Marx đối với nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa .

Anderson lập luận, tiền thuê là một khoản phí cho việc sử dụng đất màu mỡ hơn. Các loại đất kém màu mỡ nhất trong canh tác tạo ra thu nhập chỉ đơn giản là trang trải chi phí sản xuất, trong khi các loại đất màu mỡ hơn nhận được “một khoản phí bảo hiểm nhất định cho một đặc quyền duy nhất để canh tác chúng; sẽ lớn hơn hoặc nhỏ hơn tùy theo độ phì nhiêu hay ít hơn của đất. Chính phí bảo hiểm này tạo nên cái mà ngày nay chúng ta gọi là tiền thuê; một phương tiện mà thời gian sử dụng ([ sic]) canh tác các loại đất có độ phì nhiêu rất khác nhau có thể bị giảm xuống chất lượng hoàn hảo. “Anderson lập luận rằng việc cải tạo đất là có thể xảy ra; nhưng con người cũng có thể làm suy thoái đất. Ông cũng lập luận rằng vì nơi đất nông nghiệp ở Anh là do các nhà tư bản nắm giữ, người nông dân sẽ có xu hướng tránh những cải tiến mà toàn bộ lợi tức sẽ không nhận được trong thời gian thuê.

Phê bình của Karl Marx đối với nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa dựa trên phân tích của Anderson và ông khẳng định rằng độ phì nhiêu của đất là một vấn đề lịch sử, và độ phì nhiêu có thể cải thiện hoặc suy giảm. Ông lập luận rằng tính phi lý của nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa gắn liền với toàn bộ sự đối kháng của thị xã và quốc gia mà từ đó xã hội tư sản đã nảy sinh ra.

2. Luật ngũ cốc

Từ Anderson đến Ricardo, sự thúc đẩy trực tiếp đối với sự phát triển học thuyết tiền thuê đất cổ điển là cuộc tranh luận về Luật ngũ cốc, xuất hiện trong những cuộc chiến với Napoléon. Cuộc cấm vận các cảng ở Anh của Napoleon rất hiệu quả trong việc ngăn không cho Anh mua ngũ cốc từ nước ngoài. Nông dân Anh buộc phải tăng sản lượng ngũ cốc trong nước để cung cấp cho dân số. Vì phí tổn sản xuất ở Anh cao hơn nước ngoài, nên giá ngũ cốc ở Anh tăng cao. Từ năm 1790 đến 1810, giá ngũ cốc ở Anh tăng trung bình 18% một năm. Tiền thuê đất cũng tăng đến điểm nơi mà các chủ đất tiếp tục phát triển quyền lợi được đảm bảo bất di bất dịch để hạn chế nhập khẩu ngũ cốc. Luật ngũ cốc do Nghị viện thông qua năm 1815 đạt đến mục đích này một cách hữu hiệu. Chính vấn đề bảo hộ nông nghiệp và tác dụng của nó đối với phân phối thu nhập và tăng trưởng kinh tê tạo ra sự kích thích phát triển thuyết tiền thuê đất cổ điển.

3. Malthus và giá ngũ cốc

Malthus bắt đầu tiểu luận bằng cách nghiên cứu tác dụng tăng diện tích canh tác đối với giá ngũ cốc:

“Nguyên nhân của giá ngũ cốc tương đối cao là giá thực tương đối cao, hay số lượng vốn và lao động dùng để tạo ra ngũ cốc phải nhiều hơn, và lý do giải thích tại sao giá ngũ cốc thực lại cao hơn và tiếp tục tăng ở những quốc gia vốn giàu có, vẫn đang gia tăng dân số và thịnh vượng, được tìm thấy trong sự nhất thiết phải sử dụng đến đất đai bạc màu hơn… đòi hỏi chi phí nhiều hơn… [đến mức] giá tăng theo tỉ lệ”. (An Inquìty into the Nature and Progress of Rent, trang 35-36).

“Tiếp đến… giá sản phẩm trong mỗi quốc gia tiên tiến phải bằng với phí tổn sản xuất ở vùng đất có chất lượng kém nhất đang sử dụng trong thực tế: hoặc đối với phí tổn nâng sản phẩm phụ ở vùng đất cũ, chỉ mang lại lợi nhuận thông thường từ vốn nông nghiệp trả ít hay không phải trả tiền thuê đất… Điều này luôn là câu trả lời dành cho tất cả nông dân có vốn, tiêu vào mảnh đất của mình, nếu sản phẩm phụ từ mảnh đất này hoàn lại đầy đủ lợi nhuận trên vốn, mặc dù không mang lại điều gì cho chủ đất”. (Inquiry, trang 32).

4. Ricardo và tiền thuê đất

Nói cách khác tiền thuê đất mà Ricardo định nghĩa như “thanh toán cho khả năng nguyên thủy và không thể phá hủy của đất” không tồn tại ở biên tế (nghĩa là đất có lợi nhuận thấp) và chỉ tăng ở vùng đất tốt hơn khi đất đai cằn cỗi hơn được mang ra sử dụng. Ricardo giải thích rõ ràng hơn:

“Nếu tất cả đất đai đều có cùng tính chất, nếu không giới hạn về số lượng và đồng dạng về chất lượng, thì không thể trả tiền sử dụng đất, trừ phi đất thuộc vị thế đặc biệt thuận lợi. Chỉ vì đất đai không hạn chế về số lượng và đồng dạng về chất lượng, và do sự tăng dân số, đất có chất lượng kém hơn, hay nằm ở vị thê’ kém thuận lợi hơn đều đưa vào canh tác, thì tiền thuê đất phải trả để sử dụng đất. Khi xã hội phát triển, đất thuộc độ màu mỡ cấp hai cũng đưa vào canh tác, tiền thuê đất ngay lập tức bắt đầu dựa trên chất lượng ấy và số tiền thuê đất tùy vào sự khác biệt về chất lượng của hai bộ phận đất này”. (The Works and Correspondence of David Ricardo, I, trang 70).

Trong đoạn này, Ricardo nhận dạng tiền thuê đất ở biên tế quảng canh, (nghĩa là khi đưa đất đai vào canh tác nhiều hơn). Nhưng theo Ricardo, tiền thuê đất cũng tăng vì tiền lời từ đất cùng một chất lượng giảm dần (nghĩa là biên tế thăm canh). Ông nhận xét:

“Điều thông thường và quả thật thường xảy ra trước khi… canh tác đất cằn cỗi hơn, Tư bản có thể sử dụng hiệu quả hơn ở những vùng đất đã canh tác. Có lẽ nhận thấy bằng việc tăng gấp đôi Tư bản ban đầu sử dụng trên… [mảnh đất này], mặc dù sản phẩm không tăng gấp đôi… có thể tăng thêm [bằng một điều gì khác], và số lượng dư thừa có thể thu được bằng cùng sô’ Tư bản sử dụng trên [mảnh đất] khác.

Trong trường hợp như thế, vốn thích được sử dụng trên mảnh đất cũ hơn, và cũng có số tiền thuê đất như nhau, vì tiền thuê đất luôn là sự khác biệt giữa sản phẩm thu được qua việc sử dụng hai số lượng vốn và lao động như nhau”. (Works, I, trang 71).

5. Vai trò của luật ngũ cốc

Tác dụng của Luật ngũ cốc là phải buộc canh tác quảng canh và thâm canh ở Anh nhiều hơn nữa. Vấn đề Ricardo chứng minh là lợi suất giảm dần tồn tại ở cả biên tế thâm canh (nhiều đầu vào áp dụng cho cùng mảnh đất) và biên tế quảng canh (cùng các đầu vào cho các loại đất khác nhau). Bảng 7-1 minh họa một số điểm tiền thuê đất trong thảo luận của Ricardo.

Cột thứ nhất trong bảng chỉ rõ sôi đơn vị vốn và lao động, cho là bổ sung vào sản xuất với những tỉ lệ cố định (như một người, một xẻng). Đất có độ màu mỡ khác nhau (nhưng số lượng cố định) được tượng trưng bằng nhiều cấp độ khác nhau như loại 1 tượng trưng cho đất có độ màu mỡ cao nhất, còn các loại từ 2 đến 5 tượng trưng cho đất có độ màu mỡ kém hơn theo thứ tự giảm dần. Sản phẩm biên tế (MP) vốn và lao động được xác định như sự thay đổi trong tổng sản phẩm tạo ra từ sự bổ sung một đầu vào sản xuất Tư bản-lao động nhiều hơn. Theo luật lợi suất giảm dần, sản phẩm biên tế giảm sút khi có nhiều đầu vào được bổ sung vào mỗi loại đất. Theo định nghĩa quy ước, và trong bối cảnh này, lợi suất giảm dần đối với lao động chỉ xảy ra ở biên tế thâm canh. Nhưng tổng sản phẩm cũng sụt giảm khi sản xuất chuyển sang các vùng đất cằn cỗi hơn. biên tế quảng canh, tổng sản lượng giảm dần là do những khác biệt về độ màu mỡ.

Sử dụng định nghĩa tiền thuê đất của Ricardo như “sự khác biệt giữa sản phẩm thu được bằng việc sử dụng hai lượng vốn và lao động như nhau” chúng ta nhận biết từ Bảng 7-1 tiền thuê đất thực được trả ở cả biên tế thâm canh và quảng canh.

BÀNG 7-1

Vốn và lao động

Loại 1

Tổng sản phẩm và sản phẩm biên tế theo loại đất

Loại 5

(MPS)

(MP,)

Loại 2

(MP2)

Loại 3

(MP3)

Loại 4

(MP4)

0

0

0

0

0

0

1

100

(100)

90

(90)

80

(80)

70

(70)

60

(60)

2

190

(90)

170

(80)

150

(70)

130

(60)

110

(50)

3

270

(80)

240

(70)

210

(60)

180

(50)

150

(40)

4

340

(70)

300

(60)

260

(50)

220

(40)

180

(30)

5

400

(60)

350

(50)

300

(40)

250

(30)

200

(20)

Vì thế chỉ có đất loại 1 là được canh tác, tiền thuê đất 10 giạ sẽ tăng nếu sau khi đưa ra “liều” vốn và lao động thứ hai (100 – 90 = 10). Việc đưa ra liều vốn và lao động đối với đất loại 1 chẳng bao lâu sẽ tăng tổng số tiền thuê trên mảnh đất ấy lên 30 giạ (100 – 80 + 90 – 80 = 30), và cứ thế. Ớ biên tế quảng canh, tiền thuê đất là sự chênh lệch giữa sản lượng ở mảnh đất tốt nhất và tệ nhất trong canh tác với số lượng lao động và Tư bản như nhau ở mỗi mảnh đất. Vì thế có nghĩa rằng đất mỗi loại 1, 2, và 3 đều nhận 3 liều vốn và lao động, tiền thuê đất ở mảnh đất loại 1 sẽ là 60 giạ (270 – 210 = 60), còn tiền thuê đất ở mảnh đất loại 2 là 30 giạ (240 – 210 = 30). Nói chung, sẽ không có tiền thuê đất nào ở biên tế của mảnh đất sau cùng đang canh tác.

Thông tin trong Bảng 7-1 dễ dàng tạo ra sự phân phối tối ưu tổng chi phí trong số các loại đất, một khi đã biết thông tin về giá đầu vào và đầu ra. Giả sử giá mỗi giạ ngũ cốc là 1 đô-la, vì những con số trong Bảng 7-1 được hoán đổi thành lợi tức đơn thuần bằng cách thêm chữ đô-la vào phía sau chúng. Từ Bảng có thể nhận thấy nếu giá của mỗi liều vốn và lao động (đối với kỳ sản xuất) là 100 đô-la, năng suất chỉ có ở mảnh đất loại 1. Nhưng nếu giá đầu vào là 60 đô-la mỗi liều, thì sẽ có khả năng sinh lợi khi mở rộng sản xuất đến điểm nơi thu nhập biên tế (MP X giá ngũ cốc) bằng với giá đầu vào biên tế (60 đô-la). Điều này đưa đến mở rộng sản xuất ở mảnh đất loại 5, sử dụng 5 đơn vị vôn và lao động đối với mảnh đất loại 1, bôn đơn vị trên mảnh đất loại 2, ba trên loại 3, hai trên loại 4 và một trên loại 5 (kiểm tra điều này trong Bảng 7-1).

Có thể cho rằng thuyết này giải thích chỉ tiền thuê đất nông nghiệp. Trong thuyết tiền thuê đất cổ điển, đất được xem là không có cách sử dụng luân phiên nào khác. Đất được dùng để sản xuất ra một loại hàng hóa đồng nhất gọi là “ngũ cốc”, hay bỏ hoang, số lượng đất sử dụng trong bộ phận sản xuất được cho rằng phải có giá trị không đáng kể, và không có phân tích tiền thuê đất nào được đưa ra đối với đất như thế. Vì vấn đề bị Malthus và Ricardo chỉ trích là việc xác định sự phân bố tổng sản lượng giữa tiền thuê đất so với tiền lương và lợi nhuận, họ xem nhẹ bộ phận sản xuất, nơi tiền thuê đất (được cho rằng) không đáng kể, và tập trung hoàn toàn vào bộ phận kinh tế chính của nền kinh tế là nông nghiệp. Thuyết của họ cho phép vôn và lao động phải hoàn toàn lưu động, không những giữa các khoảnh đất mà còn giữa sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Thế nhưng, đất đơn thuần được cho rằng phải mang vào và mang ra trong sản xuất nông nghiệp.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)