Có thể nói, quyền khởi kiện là một trong những quyền con người cơ bản “Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận”. Như vậy, khi quyền và lợi ích hợp pháp của một người bị …
1. Quy định của pháp luật
1.1 Quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
Có thể nói, quyền khởi kiện là một trong những quyền con người cơ bản “Ai cũng có quyền yêu cầu tòa án quốc gia có thẩm quyền can thiệp chống lại những hành động vi phạm những quyền căn bản được hiến pháp và luật pháp thừa nhận”.
Như vậy, khi quyền và lợi ích hợp pháp của một người bị xâm phạm bởi một hành vi trái pháp luật, người đó có quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp luật tố tụng dân sự quy định về quyền khởi kiện của đương sự.
Điều 161 BLTTDS năm dân sự năm 2015: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quuyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác; 2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.”
Có thể nói, việc khởi kiện là yếu tố đầu tiên thể hiện rõ nhất quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự và cũng là cơ sở để thực hiện các quyền định đoạt khác của đương sự trong quá trình tố tụng. Điều 186 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Trong trường hợp đương sự có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì đương sự có quyền tự khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện thực hiện việc khởi kiện nếu xét thấy cần thiết. Trường hợp không đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì người đại diện theo pháp luật của đương sự sẽ thay họ khởi kiện. Đối với các chủ thể là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì việc khởi kiện sẽ do người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện. Đây cũng là cơ sở vững chắc cho việc ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
Như vậy, đương sự là nguyên đơn có toàn quyền trong việc có quyết định khởi kiện hay không, phạm vi khởi kiện đến mức độ nào. Nguyên đơn có quyền khởi kiện một hoặc nhiều bị đơn ra Tòa án, về một mối quan hệ pháp luật hay nhiều mối quan hệ pháp luật có liên quan để giải quyết trong cùng một vụ án. Nhìn chung, thông thường người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do BLTTDS quy định khởi kiện để nhằm yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc “Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng được xem là nguyên đơn” và Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi có đơn khởi kiện và cũng chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện của đương sự.
1.2 Quyền khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên
Đối với đương sự là người chưa thành niên, quyền khởi kiện của họ có những đặc thù khác với quyền khởi kiện của đương sự đã thành niên. Đặc thù này xuất phát từ đặc điểm người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ. Vì vậy, khi thực hiện quyền khởi kiện, đương sự là người chưa thành niên có thể khởi kiện thông qua người đại diện theo pháp luật của họ.
Cụ thể, đối với trường hợp người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, họ có hạn chế về mặt nhận thức, hiểu biết pháp luật… nên chưa nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình khi bị xâm phạm. Vì vậy, cần thiết có người đại diện cho họ đứng ra khởi kiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên. Riêng đối với trường hợp người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi nếu đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì được quyền khởi kiện về quan hệ pháp luật dân sự hoặc lao động mà họ tham gia, bởi vì, bản thân người đó đã tự nhận thức được về quyền lợi của mình một cách tương đối. Như vậy, theo quy định tại BLTTDS năm 2015 có thể hiểu đương sự là người chưa thành niên có thể thực hiện quyền khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp của họ, khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc trong một số trường hợp đặc biệt, họ có thể tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, hoặc ủy quyền cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo đương sự là người chưa thành niên có điều kiện thực hiện quyền khởi kiện của mình. “Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự”. Để có điều kiện thực hiện quyền khởi kiện, người khởi kiện cần đáp ứng được những điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
1.3 Điều kiện khởi kiện của người chưa thành niên
Quyền khởi kiện có thể hiểu theo nghĩa rộng bao gồm quyền khởi kiện của nguyên đơn, quyền yêu cầu phản tố của bị đơn và quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Đối với người chưa thành niên khi khởi kiện vụ án dân sự, do họ chưa có năng lực hành vi tố tụng dân sự đầy đủ, nên họ thực hiện quyền khởi kiện của mình thông qua người đại diện theo pháp luật; Trừ trường hợp họ có độ tuổi từ mười lăm đến dưới mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình và không bị mất năng lực hành vi dân sự thì được tự mình khởi kiện vụ án có quan hệ tranh chấp là dân sự, lao động, kinh doanh thương mại… mà họ tham gia.
Tuy nhiên, dù người chưa thành niên có người đại diện theo pháp luật hay tự mình tham gia pháp luật tố tụng, để có tư cách nguyên đơn trong vụ án, họ phải đáp ứng những điều kiện sau:
Thứ nhất, để có tư cách nguyên đơn trong vụ án dân sự, người chưa thành niên phải tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự bao gồm các quan hệ dân sự, lao động, kinh doanh thương mại, hôn nhân và gia đình có tranh chấp đó.
Thứ hai, người chưa thành niên khi khởi kiện vụ án dân sự với mục đích yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, họ phải có nghĩa vụ xác định được lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nếu không xác định được lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là gì thì không thể đặt ra vấn đề khởi kiện.
Thứ ba, yêu cầu khởi kiện của người chưa thành niên phải được thể hiện qua đơn khởi kiện gửi Tòa án. Hình thức và nội dung của đơn khởi kiện phải đáp ứng theo yêu cầu của pháp luật được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2015. Ngoài đơn khởi kiện, trong từng vụ án cụ thể, Tòa án cũng yêu cầu người khởi kiện cung cấp các tài liệu, chứng cứ kèm theo.
1.4 Về thủ tục khởi kiện của đương sự là người chưa thành niên
Điểm b khoản 2 Điều 189 BLTTDS 2015 quy định:“Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ”;
Với quy định này ta thấy, do người chưa thành niên có một số đặc điểm riêng về nhận thức và tâm lý nên nhà làm luật cũng quy định việc làm đơn khởi kiện của người chưa thành niên cũng có đặc điểm riêng, cụ thể, việc làm đơn khởi kiện của người chưa thành niên phải phụ thuộc vào người đại diện hợp pháp của họ, khi đó, người đại diện hợp pháp có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án và ở phần cuối đơn phải có xác nhận (ký tên, điểm chỉ…) của người đại diện hợp pháp của họ.
Điểm tiến bộ của BLTTDS năm 2015 thể hiện rõ nét hơn sự quan tâm của Nhà nước ta đối với người chưa thành niên nói chung và sự tăng cường bảo đảm quyền, nghĩa vụ của đương sự là người chưa thành niên trong tố tụng dân sự nói riêng. Tuy nhiên, ở một khía cạnh nhất định nó lại bộc lộ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tại Tòa án.
2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện
2.1 Cần xác định rõ trường hợp nào người chưa thành niên không có đủ năng lực hành vi tố tụng
dân sự
Điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp sau: “Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự”.
Vấn đề đặt ra là người chưa thành niên thì có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hay không? Nếu xác định mọi trường hợp người chưa thành niên đều không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có nghĩa trong mọi trường hợp người chưa thành niên đều không được tự mình đứng ra khởi kiện mà phải thông qua người đại diện hợp pháp. Do đó, việc xác định rõ trường hợp nào người chưa thành niên không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc đảm bảo quyền khởi kiện của người chưa thành niên.
Hiện tại, BLTTDS năm 2015 đã có quy định liên quan đến vấn đề này. Khoản 3 Điều 69 quy định về năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự như sau: “3. Đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.”
Như vậy, từ quy định trên có thể suy ra đương sự chưa đủ mười tám tuổi thì không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hay không? Đối chiếu với quy định tại khoản 4, 5 và 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015:
“4. Đương sự là người chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện…
6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.”
Như vậy, với cách quy định như trên, chúng ta thấy Luật chỉ quy định người chưa đủ sáu tuổi thì không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự nhưng không quy định rõ người đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi và không quy định rõ người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hay không? Theo đó, căn cứ vào từng độ tuổi cụ thể, nhà làm luật có sự phân chia:
+ Nếu chưa đủ sáu tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự;
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Như vậy, có thể suy ra, họ cũng không có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
+ Riêng người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó.
Như vậy, có thể thấy, chỉ trong trường hợp đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì họ mới được được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Nói cách khác, chỉ trong trường hợp này họ mới được xem là có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, tức là có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự. Điều này có nghĩa trong mọi trường hợp còn lại, người chưa thành niên đều không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Trong khi đó, việc nhà làm luật chưa quy định cụ thể, nên dẫn đến hai quan điểm khác nhau trong quá trình áp dụng:
Quan điểm thứ nhất: Trong mọi trường hợp, người chưa thành niên thì không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Do đó, trong mọi trường hợp Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015. Nói cách khác, mọi trường hợp người chưa thành niên đều không được quyền khởi kiện. Điều này phù hợp với cách quy định về đơn khởi kiện của người chưa thành niên theo quy định tại Điều 189 BLTTDS hiện nay, nên nhà làm luật mới quy định mọi trường hợp người chưa thành niên đều không được quyền làm đơn khởi kiện nộp cho Tòa án.
Quan điểm thứ hai – đây cũng là quan điểm của tác giả: Người chưa thành niên thì không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình. Như vậy, Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 nhưng trừ người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình. Nói cách khác, vẫn có trường hợp người chưa thành niên được quyền khởi kiện.
Việc xác định rõ phạm vi người chưa thành niên có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, người chưa thành niên nào không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự sẽ góp phần đảm bảo quyền khởi kiện của người chưa thành niên.
Chính vì vậy, tác giả kiến nghị nên sửa đổi khoản 5 và 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015 như sau:
“5. Đương sự là người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ được xác định theo quyết định của Tòa án.
6. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì không có năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ trường hợp đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Trong trường hợp này, Tòa án có quyền triệu tập người đại diện hợp pháp của họ tham gia tố tụng. Đối với những việc khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự tại Tòa án do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.”
Việc quy định cụ thể, rõ ràng sẽ góp phần hạn chế được trường hợp áp dụng không thống nhất, đồng thời, đảm bảo được quyền lợi cho người chưa thành niên, nhất là trong trường hợp người chưa thành niên là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình. Từ đó, góp phần khẳng định khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án; khẳng định quyền tự quyết định của người chưa thành niên khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án trong khuôn khổ các nội dung được pháp luật quy định không phải thông qua người đại diện hợp pháp. Tránh trường hợp gặp phải những vướng mắc tiếp theo trong quá trình tố tụng dân sự tại Tòa án, chẳng hạn như việc thu thập tài liệu chứng cứ tại các cơ quan, tổ chức; việc tham gia hòa giải, phiên tòa xét xử, việc làm đơn kháng cáo…
2.2 Xác định người làm đơn khởi kiện
Theo điểm b, khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015 quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện như sau:
Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Như vậy, nếu theo quy định trên thì tất cả mọi người chưa thành niên đều phải do người đại diện hợp pháp của họ làm đơn khởi kiện. Điều này dẫn đến việc người chưa thành niên dù thuộc trường hợp đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình cũng sẽ không được tự mình làm đơn khởi kiện. Chính từ mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật dẫn đến bất cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: Khi Tòa án nhận đơn khởi kiện của người chưa thành niên thuộc trường hợp đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì Tòa án cũng phải áp dụng quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015 để trả lại đơn khởi kiện với lý do đương sự là người chưa thành niên thì phải có người đại diện hợp pháp làm đơn khởi kiện mới đúng quy định.
Quan điểm thứ hai: Tòa án vẫn nhận đơn khởi kiện của người chưa thành niên và thụ lý vụ án nếu đã đảm bảo các điều kiện khởi kiện khác, vì đây là trường hợp đặc biệt theo quy định tại khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015 nên không cần phải có người đại diện hợp làm đơn khởi kiện thay cho họ.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ nhất, tuy nhiên, điều này lại chưa tương thích với hướng dẫn cụ thể tại khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015. Bởi trên thực tế, quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015 nhằm đến đối tượng là những người bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi tố tụng dân sự (những người mắc bệnh về khả năng nhận thức, tâm thần…) hoặc là người đương sự là người dưới mười lăm tuổi hoặc người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi nhưng không thuộc trường hợp đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, nhưng quy định này dễ dẫn đến cách hiểu là bao gồm tất cả những người chưa thành niên. Từ đó, sẽ dẫn đến việc hạn chế quyền khởi kiện của người chưa thành niên, nhất là quyền khởi kiện của người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình.
Tác giả cho rằng, với quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 189 BLTTDS thì nhà làm luật đã quên đi trường hợp quy định đối với người chưa thành niên theo quy định tại khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015.
Chính vì vậy, tác giả kiến nghị bổ sung điểm b khoản 2 Điều 189 BLTTDS năm 2015 trường hợp ngoại lệ cụ thể “Cá nhân là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình.”.
Quy định như vậy sẽ góp phần đảm bảo được quyền khởi kiện của người chưa thành niên thuộc trường hợp người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình trong quá trình giải quyết tại Tòa án. Tránh trường hợp Tòa án căn cứ vào Điều 189 BLTTDS để trả lại đơn, đảm bảo được sự thống nhất giữa các quy định của pháp luật. Tất cả đều vì mục tiêu chung là nhằm hướng tới việc làm thế nào để đảm bảo được tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, làm thế nào để họ có thể thể hiện được ý chí của mình trong các giao dịch dân sự cũng như giải quyết các tranh chấp khi có phát sinh trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
(Sưu tầm và biên tập)
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group