1. Nguồn gốc của nguyên tắc

Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 mà Việt Nam đã tham gia có quy định: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”. Xuất phát từ nghĩa vụ quốc tế khi đã tham gia một điều ước thì các quốc gia phải tuân thủ trong mọi quy trình, thủ tục tố tụng của mình, trong đó thủ tục tố tụng hình sự, dân sự, hành chính đều được áp dụng một cách triệt để, đồng thời được cụ thể hóa trong hiến pháp – một văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất của quốc gia.

Điều 31 Hiến pháp Việt Nam 2013 quy định “Không ai bị kết án hai lần vì một tội” và khoản 4 Điều 107 BLTTHS 2003 về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự:“Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật”. Việc quy định nguyên tắc “Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm” trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015 là bước cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp năm 2013, góp phần tích cực trong phòng chống oan sai và hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết đối với người không phạm tội, là điều kiện cho việc thực hiện các mục đích bảo vệ quyền con người, quyền công dân của tố tụng hình sự.

2. Nội dung của nguyên tắc

Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:

“Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.”

Trong nguyên tắc không ai bị kết án vì một tội phạm, ta cần phân biệt rõ ràng giữa “vì một tội phạm” và “vì một hành vi phạm tội”.

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Tóm lại, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Một hành vi cho dù đã cấu thành một hay nhiều tội đã quy định trong Bộ luật hình sự mà vẫn chưa bị xét xử thì hành vi đó vẫn chưa bị coi là tội phạm. Chỉ khi nào hành vi đó bị tòa án tuyên án là tội phạm bằng một bản án có hiệu lực thì bắt đầu từ thời điểm đó, hành vi đó mới gọi là tội phạm.

“Hành vi phạm tội” được hiểu là hành vi vi phạm mà Bộ luật hình sự quy định, có thể nói đó chính là hành vi khách quan của tội phạm. Một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nhưng không được quy định trong pháp luật hình sự thì không được coi là tội phạm. Nói cách khác, chỉ những hành vi làm sai quy định của pháp luật hình sự, thỏa mãn đầy đủ cấu thành tội phạm thì mới bị coi là tội phạm. Đây là đặc điểm thể hiện tính hình thức pháp lý của một hành vi phạm tội. Hành vi này được quy định bởi dấu hiệu nội dung của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội. Bộ luật hình sự quy định có những trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm như chủ thể không có lỗi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết…

Theo đó, nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm có nghĩa là nếu một người thực hiện hành vi phạm tội thì họ chỉ bị xét xử bởi một Tòa án và chỉ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý bởi một bản án.

Một người khi thực hiện một tội phạm tức là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (đáp ứng các dấu hiệu cấu thành của một tội phạm quy định trong luật hình sự). Do đó, họ phải chịu trách nhiệm hình sự, hình phạt về tội phạm mà họ đã gây ra. Bản án đã tuyên (kết án) đã có hiệu lực pháp luật là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước đối với hành vi phạm tội và trong trường hợp có tội, bản án đưa ra một hình phạt cụ thể trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự để áp dụng đối với người phạm tội. Do vậy, người phạm tội khi đã bị xét xử về tội phạm do mình thực hiện và đã có bản án có hiệu lực pháp luật thì không phải chịu thêm bất kỳ một sự kết án nào khác về tội phạm đó. Trong trường hợp bản án có hiệu lực tuyên vô tội thì nguyên tắc trên vẫn được áp dụng như những bản án có hiệu lực khác. Bởi lẽ, dù bản án tuyên có tội hay vô tội thì người phạm tội cũng đã bị một lần xét xử do hành vi mình thực hiện, cho nên không thể chịu thêm bất kỳ lần xét xử nào khác đối với hành vi đó. Trong trường hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố về tội phạm trên thì vụ án phải được đình chỉ. Nguyên tắc này thể hiện sự nhân đạo, công bằng trong pháp luật hình sự.

Nội dung điều luật 14 BLTTHS 2015 nghiêm cấm Cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố họ với tư cách là bị can khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; nghiêm cấm Cơ quan điều tra tiến hành áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; nghiêm cấm Viện kiểm sát quyết định truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; nghiêm cấm Tòa án xét xử tuyên bố họ phạm tội khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không phải là xét xử lần thứ hai đối với hành vi phạm tội mà họ đã được xét xử, không vi phạm nguyên tắc này. Việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là thủ tục có tính chất tương đối đặc biệt để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đưa ra phương án khắc phục những sai lầm này không phải xét xử lần nữa với người đã bị kết án.

3. Ý nghĩa của nguyên tắc

Pháp luật quy định nguyên tắc Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm thể hiện chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì chỉ bị xử lý một lần. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định nguyên tắc này góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết người không phạm tội; đồng thời kế thừa phát huy mặt tích cực của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại khoản 4 Điều 107, những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự: “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật”.

4. Mối quan hệ giữa nguyên tắc với nguyên tắc suy đoán vô tội

Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.”

Trong mối quan hệ với nguyên tắc không ai bị kết án hai lần cùng một tội phạm, cả hai nguyên tắc đều có ý nghĩa như sau:

Thứ nhất, cả hai nguyên tắc không chỉ đáp ứng yêu cầu chứng minh: Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của người phạm tội. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán có tội hoặc không xem xét kĩ hành vi đó có bị kết án hay chưa thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội là hết sức nguy hiểm. Nó đồng nhất người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, dù Nhà nước có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.

Thứ hai, cả hai nguyên tắc đồng thời bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Hai nguyên tắc này còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, mà còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người luôn vô tội khi nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội.

5. Mối quan hệ giữa nguyên tắc với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

Điều 16 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định:

“Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư của LVN Group hoặc người khác bào chữa.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họtheo quy định của Bộ luật này.”

Nguyên tắc trên cùng với nguyên tắc không ai bị kết án hai lần cùng một tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng.

Thứ nhất, cả hai nguyên tắc là sự thể hiện cụ thể của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ chế bảo đảm việc thực hiện là nhiệm vụ của cơ quan đó đã chứng tỏ bản chất ưu việt của Nhà nước ta và thông qua quyền bào chữa, họ có thể tự phản kháng lại quyết định khởi tố sai pháp luật của cơ quan có thẩm quyền khi khởi tố một hành vi đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.

Thứ hai, cả hai nguyên tắc đều thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Tính nhân đạo được thể hiện, trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc Tòa án yêu cầu Đoàn Luật sư của LVN Group cử người bào chữa cho họ. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có cơ hội đưa ra những chứng cứ minh oan hoặc làm giảm nhẹ tội cho mình, cơ hội được tranh tụng bình đẳng trước Tòa án. Điều quan trọng là cả hai nguyên tắc đều góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào hoạt động của hệ thống Tư pháp hình sự.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)